Người xưa lý giải từ “Chính trị” như thế nào?

27/10/20, 06:42 Cổ Học Tinh Hoa

Chữ Trung Quốc cổ đại là có sinh mệnh, chúng có mối liên hệ nhất định với các ký tự trên thiên thượng, có đặc tính của vũ trụ và đều có quan hệ liên đới nhất định với kết cấu của vũ trụ. Chữ Hán phồn thể vừa có ngữ âm, vừa mang tính biểu tượng, khó có chữ viết của dân tộc nào trên thế giới có thể sánh được.

Người xưa lý giải từ “Chính trị” như thế nào? (ảnh 1)
Người xưa lý giải từ chính trị như thế nào? (Ảnh: TH)

Nội hàm của chữ Hán Thần truyền rất phong phú, lời ít ý nhiều, chủ yếu là những từ đơn, thường dùng một ký tự làm từ. Ví dụ, “chính trị” (政 治) là một danh từ kép được sử dụng trong thời hiện đại, còn thời cổ đại nó là hai từ, “chính” là một từ, và “trị” là một từ.

Ý nghĩa cổ xưa của “chính” (政) và “trị” (治)

Về chữ “Chính” (政), trong “thuyết văn giải tự” có nói rằng: “Khổng Tử viết: chính (政) giả, chính (正) dã” (chữ ‘Chính’ nghĩa là chính trực). Ở trong từ chính (政) thì “chính” (正) ở bên trái thể hiện cách phát âm, chữ “văn” (文) bên phải thể hiện ý nghĩa. Hợp lại thì “chính” (政) có nghĩa là “chính” (正) đạo. Lấy “chính” (正) mà hành sự, lấy “văn” (文) làm phương thức để “bình thiên hạ”.

“Trị” (治) trong thời cổ đại là để biểu thị nước, và trong “tuân tử – tu thân thiên” nói rằng, “Thiểu nhi lý viết trị” (thiếu mà sửa sang thì gọi là trị). “Trị” thể hiện một trạng thái xã hội tốt đẹp, đối lập với “loạn”, người xưa thường ghép “Trị loạn hưng suy” với nhau để nói. “Trị” là kết quả của “chính”, có “chính” thì mới có “trị”, không có “chính” thì sẽ mất “trị” mà sinh “loạn”.

“Chính” (政) và “chính” (正)

Văn hóa truyền thống của Trung Quốc có thể tăng thêm chính niệm cho con người. Nội hàm của “chính” (政) trong văn hóa thần truyền cũng phù hợp với đặc tính của vũ trụ. Các vị Thần Phật là dùng từ bi và thiện tâm để cai quản thế giới của họ, mà các hoàng đế nhân gian thì lấy”chính” (正) đạo để quản lý đất nước.

Trong lời mở đầu “nghiêu điển” của “Thượng thư” do Khổng Tử biên tập có viết: “Viết nhược kê cổ đế nghiêu, viết phóng huân, khâm, minh, văn, tư, an an, duẫn cung khắc nhượng, quang bị tứ biểu, cách vu thượng hạ. Khắc minh tuấn đức, dĩ thân cửu tộc; cửu tộc ký mục, bình chương bách tính. Bách tính chiêu minh, hiệp hòa vạn bang.”

Có nghĩa là Vua Nghiêu bắt đầu bằng việc tu dưỡng đạo đức của bản thân, rồi kết thân với “cửu tộc”, sau đó bình định “thiên hạ”, và cuối cùng đạt đến sự hòa hợp “vạn bang”. “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Đây là phương thức tuần hoàn theo hướng chính mà người xưa dùng, bắt đầu từ “chính” bản thân rồi dần dần kéo theo người khác, lại không ngừng hướng ra bên ngoài cảm hóa người khác.

Người xưa lý giải từ “Chính trị” như thế nào? (ảnh 2)
Vua Nghiêu. Tranh do Mã Lân Hội thời Tống vẽ, được lấy từ Viện bảo tàng Cố Cung quốc gia.

Các hoàng đế của tất cả những triều đại trong lịch sử cũng như vậy. Vương triều thịnh thế, nhất định là vì bản thân hoàng đế rất “chính”, rồi đến các quan đại thần “chính”, trăm quan “chính”, sau đó là dân chúng “chính”, từ đó mà khiến ngoại lai khuất phục, thiên hạ hòa thuận, thái bình. Nếu bản thân vị hoàng đế không “chính”, thì mỗi tầng tầng sẽ hỗn loạn, hủ bại, cuối cùng dẫn đến vong quốc, diệt gia, ngay cả thân thể cũng chẳng còn.

Không chỉ hoàng đế tu thân duy trì quản lý đất nước, mà cả các vương công đại thần cũng phải chính trực, đặt quyền lợi chung lên quyền lợi riêng. Hoàng đế mỗi ngày cần phải tổ chức hội triều để thảo luận các vấn đề với các quần thần, ngoài quan ngự sử can gián hoàng đế ra, các vương công đại thần khác cũng phải có trách nhiệm can gián hoàng đế. Trong đó, không ít quan đại thần hiền đức cổ đại đã thẳng thắn khuyên can, những hoàng đế tiếp nhận lời can gián được mọi người ca tụng và truyền lại cho đến ngày nay.

Đường Thái Tông, phải nói là vị hoàng đế giỏi tiếp nhận lời can gián nhất trong lịch sử. Ông giỏi trong việc lựa chọn hiền tài, xây dựng và duy trì bầu không khí thẳng thắn, tiếp thu ý kiến hữu ích, cùng nhau bàn bạc quốc sách.

Đại thần Ngụy Chủy là người trung thành lại ngay thẳng, trước sau có hơn 200 lời khuyên đối với Thái Tông, không chỉ đưa ra những kiến giải chính xác về đại sự của đất nước mà còn thường xuyên thẳng thắn chỉ ra những khuyết điểm và thiếu sót của Đường Thái Tông. Ông đã viết cuốn “Thập tiệm bất khắc chung sơ” kịch liệt chỉ ra 10 khuyết điểm và sai lầm của Đường Thái Tông, điều này khiến Thái Tông vô cùng xấu hổ. Nhưng ông vẫn trọng dụng Ngụy Chủy, thậm chí còn lấy “Thập tiệm bất khắc chung sơ” làm điều răn khi còn chấp chính.

Người xưa lý giải từ “Chính trị” như thế nào? (ảnh 3)
Đường Thái Tông, Tranh được vẽ vào thời Đường, lấy từ Viện bảo tàng Cố Cung quốc gia

Hầu hết các vị hoàng đế cổ đại không chỉ tự nghiêm khắc với bản thân mà còn rất sáng suốt. Bắt đầu từ thời nhà Tùy và nhà Đường, “hệ thống ba tỉnh và sáu bộ” đã hoạt động giống như một hệ thống phân quyền và quản thúc của phương Tây. Các lệnh của hoàng đế cần được tỉnh xét duyệt, và tỉnh có quyền rút lại chiếu chỉ của hoàng đế. Tống Thái Tổ thề không giết các đại thần và ngôn thần, điều này đã đạt được một mức độ “tự do ngôn luận” đáng kể.

Các vị vua cổ đại thực sự không chuyên chế và ngang tàng như người hiện đại nghĩ. Đó chỉ là một số người hiện đại, đặc biệt là Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) cố tình bôi nhọ và bóp méo lịch sử và tiền nhân, mục đích cuối cùng của họ thì tất nhiên ai cũng biết. Người dân thuần hậu và bầu không khí thông suốt của xã hội truyền thống Trung Quốc đó là điều mà xã hội dưới sự kiểm soát của ĐCSTQ không thể sánh được.

Tất nhiên, các hoàng đế của những triều đại trước đây cũng có nhiều vấn đề cá nhân, biểu hiện cũng khác nhau, nhưng nhìn chung, các hoàng đế thời xưa đều quản lý đất nước dựa theo lý niệm “chính” một cách chính thống. Đặc biệt là từ thời nhà Hán, quyền lực triều đình luôn chịu ước thúc bởi tư tưởng Nho gia, và “nhân trị”, tự nhiên trở thành một khóa học bắt buộc đối với các bậc đế vương.

Ngoài hoàng đế, thì hàng trăm gia đình, dù là “nhân” của Nho gia, “đạo” của Đạo giáo, hay “kiêm ái” của Mặc gia, đều nhấn mạnh đến chính tâm, chính thân, ngay cả học thuyết binh gia “binh giả, quỷ đạo dã” (dùng binh đánh giặc là hành động dối trá) cũng nói về đạo của tướng lĩnh. Bắt đầu từ tự thân, sau đó đến binh sĩ mới có thể quyết định thắng bại cuối cùng.

Văn hóa truyền thống Trung Quốc có thể tăng thêm chính niệm cho mọi người, trong nội hàm chính thống của từ “chính”, không cần giải thích quá nhiều, người ta vừa nhìn thấy từ này liền hiểu được nên quản lý xã hội như thế nào rồi.

Bên phải của “chính” (政) là “văn” (文), không phải “võ” (武)

Bên phải của “chính” (政) là “văn” (文), không phải “võ” (武), đây cũng là nội hàm cơ bản của các khái niệm truyền thống về “chính” và “trị”. Vậy lý giải “văn” như thế nào? Khởi điểm của văn hóa Trung Hoa là văn hóa lễ nhạc, nguồn gốc của văn hóa thần truyền này là rất cao.

Trong tác phẩm “Hoàng đế nội kinh” do Hoàng Đế và Kỳ Bá luận đạo mà sáng tác ra, trong đó nói rằng “trời có ngũ âm, người có ngũ tạng, trời có sáu luật, người có lục phủ”, cũng chính là nói, ngũ âm và sáu luật của thiên thể ứng với mạch lạc và phủ tạng của con người, năng lượng thuần khiết của đức âm nhã nhạc có thể thuận theo vạn sự vạn vật trong thiên địa mà vận hành. Có lợi đối với đạo dưỡng sinh của thân thể người, đồng thời cũng có thể thiện hóa vạn vật.

Trong thời đại vua Thuấn, lễ nhạc cũng được coi là có thể giáo hóa dân chúng, đề cao đạo đức hàm dưỡng bản thân và đạt đến thiên nhân hợp nhất. Vua Thuấn bổ nhiệm Quy làm quan phụ trách âm nhạc cung đình, dùng âm nhạc để dạy dỗ con cháu của hoàng đế và các quý tộc, dạy họ trở nên ngay thẳng mà hòa nhã, khoan hậu mà kính cẩn, cương nghị mà không đắc chí hung bạo, rộng lượng mà không kiêu ngạo. Dùng thơ để thể hiện chí hướng, dùng ca hát để thơ cất lên lời, tiếng hát và nhịp điệu phải hài hòa, âm luật phải phù hợp với ngũ âm, diễn tấu tám bộ nhạc cụ phải nhịp nhàng không loạn như vậy nhân thần mới có thể hợp nhất. Mà nhạc “thiều” của vua Thuấn là một cách sử dụng văn học cổ điển để thiện hóa nhân tâm, thu phục bộ tộc Tam Miêu.

Người xưa lý giải từ “Chính trị” như thế nào? (ảnh 4)
Vào thời vua Thuấn, lễ nhạc được coi là có thể dùng để giáo hóa dân chúng, đề cao hàm dưỡng đạo đức cá nhân. Tranh được vẽ vào thời Tống, lấy từ Viện bảo tàng Cố Cung quốc gia.

Khổng Tử viết: “Tôi theo nhà Chu”. Khổng Tử cho rằng nhà Hạ coi trọng “Chất”, nhà Thương coi trọng “Văn”, trong khi ở thời nhà Chu thì là “hào hoa phong nhã” cũng chính là đầy đủ cả “chất” lẫn “văn”. Cho nên ông khuyến khích vua quan lấy chuẩn mực của nhà Chu để trị quốc.

“Văn” và “võ” đối lập nhau. Người xưa sử dụng “võ” rất thận trọng. Võ lực chỉ được sử dụng khi bất đắc dĩ. Lão Tử nói “không dùng binh mà bức thiên hạ”, Tôn Tẫn cũng nhấn mạnh rằng “thắng ở đạo” và chiến tranh phải có chính nghĩa. Trong “Lễ ký – Tế pháp” có câu rằng “Văn Vương dùng văn trị, Võ Vương dùng võ trị gây nạn cho dân”.

Một khi thay đổi triều đại, có được thiên hạ, quân vương không nên lại dùng vũ lực để quản lý đất nước nữa. Ở Trung Quốc xưa nay có một câu nói rằng “Mã thượng đắc thiên hạ, bất năng mã thượng trị thiên hạ” (có thể lập tức lấy được thiên hạ nhưng không thể lập tức trị được thiên hạ), có nghĩa là “chính” nhất định phải sử dụng “văn” không thể dùng “võ”. “Võ” chính là bạo lực, cưỡng chế và sát phạt, đặc biệt là dùng vũ lực vô cớ, điều này thậm chí còn bị khinh bỉ trong văn hóa Trung Hoa.

Đặc biệt là cầm quyền trong thời kỳ bình, còn nói “đấu tranh”, “chính quyền từ trong nòng súng”, “đàn áp.” Đây là một hành vi lưu manh bạo ngược và phản nhân tính. Mà “Chính trị” của ĐCSTQ chính là áp đảo và cưỡng chế nhân dân. “Chính trị” của ĐCSTQ đi ngược lại với “chính” và “trị” thực sự trong văn hóa truyền thống.

Hai từ “văn hóa” trong tiếng Hán cũng có ý tứ là lấy “văn” để “cảm hóa” tư tưởng. Hoàng đế sử dụng đức “văn” để cảm hóa các đại thần và chư hầu, quan dùng đức “văn” để cảm hóa dân chúng, và “người Trung Quốc” (người Trung Nguyên) sử dụng “văn” để cảm hóa người ngoại quốc, từ đó mà đạt được thời thịnh thế “bình thiên hạ”. Làm được “chính” như thế này thì thật là tốt biết bao! Nếu toàn thế giới đều dùng lý niệm này để “làm chính trị” thì thiên hạ sẽ mãi thái bình.

Tài liệu tham khảo:

[1] “thượng thư · ngu thư · Thuấn điển”
[2] “Luận ngữ -bát dật “
[3] “Tu thân tế thế “, Tề Trì bình/ Zhengjian.com

Chân Chân

Theo soundofhope.org

Ad will display in 09 seconds

Tiết lộ chấn động con người đến từ đâu?

Ad will display in 09 seconds

Quả báo diệt Phật bi thảm trong lịch sử Trung Hoa

Ad will display in 09 seconds

Những câu chuyện đáng ngẫm: Lấy vợ cho Hà Bá

Ad will display in 09 seconds

Các nhà khoa học vĩ đại nói gì về tôn giáo và Thần học?

Ad will display in 09 seconds

Sự nghịch lý trong bài tập chống 'chết chìm' của hải quân SEAL

Ad will display in 09 seconds

Kẻ xấu xí vì sao đắc quả La Hán?

Ad will display in 09 seconds

Vì sao hòa thượng cướp dâu?

Ad will display in 09 seconds

Tội ác này đã gây diệt vong cả một thành phố cổ đại

Ad will display in 09 seconds

Những linh hồn ở Đại Kim Tự Tháp Giza tiết lộ điều gì?

Ad will display in 09 seconds

Bị đánh bom nguyên tử, vì sao người Nhật vẫn kính trọng tướng Mỹ ?

  • Tiết lộ chấn động con người đến từ đâu?

    Tiết lộ chấn động con người đến từ đâu?

  • Quả báo diệt Phật bi thảm trong lịch sử Trung Hoa

    Quả báo diệt Phật bi thảm trong lịch sử Trung Hoa

  • Những câu chuyện đáng ngẫm: Lấy vợ cho Hà Bá

    Những câu chuyện đáng ngẫm: Lấy vợ cho Hà Bá

  • Các nhà khoa học vĩ đại nói gì về tôn giáo và Thần học?

    Các nhà khoa học vĩ đại nói gì về tôn giáo và Thần học?

  • Sự nghịch lý trong bài tập chống 'chết chìm' của hải quân SEAL

    Sự nghịch lý trong bài tập chống 'chết chìm' của hải quân SEAL

  • Kẻ xấu xí vì sao đắc quả La Hán?

    Kẻ xấu xí vì sao đắc quả La Hán?

  • Vì sao hòa thượng cướp dâu?

    Vì sao hòa thượng cướp dâu?

  • Tội ác này đã gây diệt vong cả một thành phố cổ đại

    Tội ác này đã gây diệt vong cả một thành phố cổ đại

  • Những linh hồn ở Đại Kim Tự Tháp Giza tiết lộ điều gì?

    Những linh hồn ở Đại Kim Tự Tháp Giza tiết lộ điều gì?

  • Bị đánh bom nguyên tử, vì sao người Nhật vẫn kính trọng tướng Mỹ ?

    Bị đánh bom nguyên tử, vì sao người Nhật vẫn kính trọng tướng Mỹ ?

x