Vì sao trong hôn nhân, người ta thường chúc nhau bốn chữ “Hỷ Lạc Hòa Thuận”?
Ngày nay, ở nhiều nơi mỗi khi nói đến chuyện hôn nhân người ta thường hay nhắc đến bốn chữ “Hỷ Lạc Hòa Thuận”. Đây cũng là bốn chữ gắn liền với câu chuyện tình yêu son sắt thủy chung của một đôi trai gái thời Nam Tống.
Thời Nam Tống, ở phủ Lâm An có một người kia họ Lạc tên Mỹ Thiện. Ông Lạc này có người con trai tên là Lạc Hòa, mặt mũi thanh tú, người lanh lợi khôn ngoan. Lúc còn nhỏ, Lạc Hòa được gửi nuôi ở nhà ông cậu trong thành phố là An Tam Lão, nhân tiện sang học ở lớp học tư bên cạnh, là nhà họ Hỷ.
Nhà họ Hỷ có một cô con gái tên gọi Thuận Nương, nhỏ hơn Lạc Hòa một tuổi. Hai đứa trẻ cùng học với nhau, mọi người trong lớp học này thường nói đùa rằng: “Hai đứa mày tên ghép lại sẽ thành ‘Hỉ lạc hòa thuận’, thật là trời đặt sẵn một đôi”.
Hai đứa nhỏ cũng đã hơi hiểu biết, nghe nói vậy cũng thấy vui thầm trong bụng và ngầm tính chuyện phu thê. Khi Lạc Hòa được 12 tuổi, cha mẹ đón về nhà, Thuận Nương thì cứ phải ở chốn thâm khuê làm công việc nữ công. Thế là hai trẻ không được gặp nhau nữa.
Ba năm sau, vào lúc gần tiết thanh minh, ông cậu An Tam Lão cho cháu đi thăm phần mộ, nhân tiện đi chơi Tây Hồ. Hai cậu cháu xuống một chiếc thuyền, vừa ngồi yên chỗ thì thấy một đám phụ nữ bước lên. Nhìn kỹ, thì ra là hai mẹ con nhà họ Hỷ, cùng đi với một a hoàn và một bà vú nuôi.
An Tam Lão vội bước tới chào hỏi, lại gọi cháu lại để gặp. Lúc này Thuận Nương đã 14 tuổi, trông rất xinh đẹp. Lạc Hòa và Thuận Nương đã ba năm không gặp, nay lại gặp nhau trên Tây Hồ, nên bốn mắt luôn luôn nhìn nhau, cả hai đều lộ rõ vẻ yêu thích.
Thuyền tới ngôi đình giữa hồ, các khách nam đều lên đình đi dạo xem. Lạc Hòa thoái thác là đau bụng, ở lại trong thuyền, rồi tới trò chuyện với mẹ con Thuận Nương, thỉnh thoảng lại đưa mắt nhìn Thuận Nương, hai người dường như hiểu ý nhau.
Ngày hôm đó, về đến nhà, Lạc Hòa nói với mẹ xin nhờ bà mối đến nhà họ Hỷ cầu hôn.
Bà mẹ là An Thị chẳng biết cao thấp gì, bèn giục Lạc công đi tìm bà mối. Lạc công nói: “Nhà họ Hỷ là danh gia, con gái của họ còn sợ không có ai cầu hay sao mà phải chịu kết thông gia với nhà mình? Nhờ người đến hỏi, họ lại cười cho ấy chứ”.
Lạc Hòa thấy cha mẹ không bằng lòng, bèn xin mẹ đi nhờ ông cậu giúp. Nào ngờ An Tam Lão cũng nói y như cha, thế là chàng ta thất vọng quá, suốt đêm thở dài không ngủ.
Hôm sau, trời vừa mới sáng, chàng ta bèn lấy giấy làm một cái bài vị, trên đề 7 chữ “Thân thê Hỷ Thuận Nương sinh vị” (bài vị sống của vợ thân thương Hỷ Thuận Nương). Rồi cứ mỗi ngày ba bữa đứng trước bài vị mà ăn. Buổi tối lại đặt bài vị ngay cạnh gối, gọi khẽ ba tiếng rồi mới ngủ.
Sau đó, cứ đến mấy ngày Tết Thanh minh, Trùng dương, Đoan ngọ, Lạc Hòa lại sửa soạn nghi dung, mặc quần áo mới, qua qua lại lại giữa đám đông, mong mỏi Thuận Nương xuất hành, may ra được gặp.
Có mấy nhà cũng buôn bán như nhà họ Lạc, cũng có con gái, thấy Lạc Hòa đã lớn, đều đến cầu thân. Cha mẹ đã mấy lần đồng ý, song Lạc Hòa cứ không chịu. Chàng ta thề rằng nhất định đợi khi nào Thuận Nương đi lấy chồng rồi mới tính đến chuyện hôn nhân của mình.
Thật khéo làm sao, bên này Lạc Hòa thề không lấy vợ, thì bên kia Thuận Nương cũng không chịu lấy chồng. Ngày tháng thoi đưa, chẳng mấy chốc đã qua ba năm. Năm đó Lạc Hòa 18 tuổi, Thuận Nương cũng đã tròn 17.
Bấy giờ đúng vào năm hai miền Nam, Bắc thông hòa. Nước Kim phái một sứ thần tới Lâm An. Để khoản đãi sứ thần, ngày Lễ vua Thủy triều 18 tháng 8, triều đình dựng một cái giàn màu sắc rực rỡ ở bên sông rồi bày tiệc lớn ở đó để vua quan ngắm nước thủy triều lên. Nam nữ khắp thành đều tới xem rất đông vui.
Lạc Hòa biết tin cả gia đình họ Hỷ cũng đi xem thủy triều bèn ăn mặc chỉnh tề đi tới cửa sông Tiền Đường, nhưng chàng tìm mãi khắp nơi vẫn chẳng thấy Thuận Nương đâu. Cuối cùng, đi đến một chỗ gọi là “Bức tranh trời vẽ”, chỗ này thế nước lên rất lớn, luôn có người đứng không vững bị cuốn xuống nước.
Lạc Hòa đi một vòng ở đây, không thấy Thuận Nương, lại quay tìm lại, trong đám người đông nghìn nghịt, cứ đi một bước lại nhìn một lượt. Cứ thế rất lâu, bỗng thấy một bà đi đằng trước mặt, nhận ra là bà vú nuôi của Thuận Nương, bèn theo sát đằng sau. Đi được một quãng, quả nhiên thấy cả nhà họ Hỷ đang ngồi vừa uống rượu vừa xem nước.
Lạc Hòa không dám đến gần quá, chỉ đứng xa xa đăm đắm nhìn Thuận Nương, tức rằng không thể bước tới để ôm chặt lấy nàng mà nói đôi lời. Thuận Nương ngẩng lên nhìn, cũng nhận ra Lạc Hòa ở xa xa, thấy chàng bước rồi lại lùi trông rất hồi hộp thì lòng dạ không yên. Nhưng cha mẹ đang ở ngay bên cạnh, không rời nửa bước, không thể đến mà gặp chàng được.
Chính lúc hai người đang đắm đuối nhìn nhau thì bỗng nghe nói: “Thủy triều lên rồi”. Nghe chưa dứt lời đã thấy bên tai ầm ầm như trời long đất lở, ngọn triều cao đến mấy trượng dồn thẳng vào bờ. Mọi người hoảng hồn kêu ré lên chạy lùi về phía sau. Thuận Nương đang chỉ chăm chú nhìn Lạc Hòa, bất giác cuống lên chẳng biết cao thấp gì, lại cứ bước tới mấy bước, bỗng trật chân một cái, lập tức bị cuốn vào làn sóng.
Lạc Hòa thì đã cảnh giác, thấy được thế nước đang tới, vội quay mình chạy lên chỗ cao. Nhưng vẫn nhớ đến Thuận Nương, mắt nhìn Thuận Nương miệng kêu: “Tránh nước lên kìa!” Đột nhiên thấy Thuận Nương ngã xuống. Chàng hết hồn vội nhảy luôn đến chỗ đó. Vốn không biết bơi, chỉ vì người yêu mà chàng cuống lên chẳng kể đến sinh mạng mình nữa.
Vợ chồng ông Hỷ thấy con gái ngã xuống nước hoảng hốt hét lên: “Cứu người! Cứu người! Xin cứu con gái tôi, sẽ có trọng thưởng!” Một đám con trai biết bơi nghe nói có thưởng đều nhảy ra nhào lộn với sóng để vớt Thuận Nương.
Lại nói Lạc Hòa, vừa nhảy xuống là chìm ngay tận đáy nước, song cứ cảm thấy như đang mơ, chẳng đau đớn gì. Chàng cứ tự nhiên trôi đến miếu của vua thủy triều, thấy đèn nến sáng trưng, hương thơm ngạt ngào. Chàng vái lạy, xin vua thủy triều cứu Thuận Nương. Vua thủy triều nói: “Thuận Nương ta đã lưu giữ tại đây rồi, bây giờ giao trả cho ngươi”. Nói xong có một tiểu quỷ dẫn Thuận Nương từ phía sau tấm màn đi ra.
Lạc Hòa lạy tạ vua thủy triều rồi đưa Thuận Nương ra khỏi miếu. Hai người vô cùng sung sướng, không nói được lời nào, chỉ ôm chặt lấy nhau, song cứ cảm thấy người nhẹ lâng lâng, lát sau cùng nổi lên mặt nước.
Bọn con trai kia thấy Thuận Nương trồi lên khỏi sóng, vội vàng xô tới. Đến khi nâng được lên khỏi mặt nước mới phát hiện ra là hai người. Thế là bốn, năm người kẻ khiêng đầu người khiêng chân, đưa cả lên bờ rồi nói với ông Hỷ rằng: “Xin chúc mừng, cứu được cả cậu con rể nữa”.
Mọi người tới xem, chỉ thấy hai người mặt đối mặt, ngực sát ngực, ôm nhau rất chặt, không sao gỡ ra được. Gọi mãi không tỉnh nhưng thân thể còn ấm, có vẻ như nửa sống nửa chết. Cả nhà họ Hỷ túm tụm lại khóc. Mọi người chen nhau đến xem, ai cũng bảo chưa thấy chuyện lạ như vậy bao giờ.
Lại nói ở nhà họ Lạc, khi nghe tin con trai đi xem nước thủy triều bị sóng cuốn xuống sông, ông Lạc kinh hãi, vừa đi vừa ngã, vội vã đến nơi, rẽ đám đông ra, nhìn thấy Lạc Hòa bèn gọi: “Con ơi!” rồi òa khóc lớn, vừa khóc vừa nói: “Con ơi! Khi sống con không được kết duyên chồng vợ, nào ngờ khi chết con lại được thành đôi!”
Ông Hỷ mới hỏi vì sao nói vậy, ông Lạc bèn kể rõ chuyện trước đây ba năm con trai ông nhất định xin cầu hôn với Thuận Nương, rồi thề rằng quyết không lấy vợ trước khi nàng lấy chồng. Vợ chồng ông Hỷ nghe rồi mới trách: “Nhà họ Lạc cũng có bảy đời làm quan, cũng là vọng tộc, hai đứa chúng nó lúc nhỏ lại cùng học với nhau. Đã có ý ấy thì sao ông không nói sớm. Thôi bây giờ mọi người cùng gọi đi, nếu gọi được chúng tỉnh lại, tôi sẽ gả con gái tôi cho con ông”.
Thế là cả hai bên, nhà thì gọi con gái, nhà thì gọi con trai, gọi khoảng nửa tiếng đồng hồ, hai người dần dần mở mắt, bắt đầu có hơi thở, song bốn cánh tay vẫn không nới lỏng.
Ông Lạc nói: “Con trai hãy mau tỉnh lại đi, bên họ Hỷ đã bằng lòng gả Thuận Nương cho con làm vợ rồi!”
Chưa dứt lời đã thấy Lạc Hòa mở to mắt ra nói: “Nhạc phụ đừng có nói mà không giữ lời nhé!” Rồi nhổm ngay dạy vái tạ vợ chồng ông Hỷ. Sau đó Hỷ Thuận Nương cũng tỉnh lại. Cả hai đều tỉnh táo như cũ, chẳng nôn ra tí nước nào, khiến ông Hỷ và ông Lạc rất vui.
Ngày hôm sau, nhà họ Hỷ nhờ người làm mối đến nhà họ Lạc bàn chuyện hôn nhân, xin nhận Lạc Hòa làm con rể. Người làm mối chính là ông An Tam Lão. Nhà họ Lạc hoàn toàn bằng lòng. Thế là chọn được ngày lành, nhà họ Hỷ đưa đồ vàng bạc lụa là, trống kèn sôi nổi, đến đón Lạc Hòa về nhà thành thân. Từ đó, đôi vợ chồng ân ái vui vẻ thế nào, chuyện chẳng cần phải nói.
Tròn một tháng sau, Lạc Hòa và Thuận Nương chuẩn bị lễ vật để đi bái tạ miếu vua thủy triều.
Ông Hỷ thấy Lạc Hòa thông minh lanh lợi bèn mời danh sư đến nhà dạy cho. Sau Lạc Hòa được ghi tên lên bảng vàng.
Ngày nay, người Lâm An mỗi khi nói đến chuyện hôn nhân thường hay nhắc đến bốn chữ “Hỷ Lạc Hòa Thuận”.
Mai Mai (s/t)