Phong vân mạn đàm (Kỳ 5): Trận chiến Ngô – Sở: Họa kiếp bất ngờ (phần 1)
Lời toà soạn: Các dân tộc Á Đông có một nền văn minh vô cùng xán lạn. Lịch sử Á Đông nói chung, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam, rất hào hùng, tràn đầy khí chất. Lịch sử 5000 năm văn minh, văn hoá của Á Đông là cả một kho tàng vô giá cho hậu thế. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của những quan niệm mới có phần thiên kiến, lệch lạc, lịch sử ấy đã bị cải biên và nguỵ tạo nhiều. Với mong muốn phục hưng lại nền văn minh vĩ đại cũng như những truyền thống đạo đức quý báu của người Á Đông, chúng tôi tiến hành loạt bài về lịch sử Việt Nam, Trung Hoa… gửi đến quý độc giả, ngõ hầu phá giải được những quan niệm sai lệch hiện nay.
- Loạt bài dài kỳ: Phong vân mạn đàm
Ở phần này, chúng ta sẽ cùng đàm luận về trận chiến giữa Ngô và Sở diễn ra vào những năm cuối thời Xuân Thu. Hôm nay hãy điểm qua tình hình đất nước Trung Hoa thời cổ đại và một trong những nhân vật nổi bật nhất thời kỳ này: Ngũ Tử Tư.
Vài nét về lịch sử kiến quốc Trung Hoa cổ đại
Chúng ta biết, nền văn minh Trung Hoa bắt đầu từ Hiên Viên Hoàng Đế. Người Trung Hoa coi Hoàng Đế và Viêm Đế cùng là tổ tiên, do đó họ tự xưng mình là con cháu Viêm Hoàng. Năm vị thánh vương từ Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế Cốc cho đến Nghiêu và Thuấn gọi chung là Ngũ Đế. Những sự tích về họ đều được ghi chép trong “Ngũ Đế bản kỷ” thuộc “Sử Ký”.
Trong lịch sử, các vị Ngũ Đế không nhường ngôi cho con cháu mà nhường ngôi cho bậc hiền tài. Ví dụ như vua Nghiêu nhường ngôi cho Thuấn, còn vua Thuấn thì nhường ngôi cho Vũ. Đại Vũ không nhường ngôi cho hiền sĩ, mà truyền lại ngôi vị cho con trai của mình là Khải. Từ đây mở ra vương triều “một nhà độc chiếm thiên hạ” đầu tiên của Trung Quốc, bắt đầu từ triều Hạ. Người đời sau đều nhìn nhận rằng đạo đức của Đại Vũ không sánh được với Nghiêu Thuấn. Mặc dù Đại Vũ được tôn xưng là Đế Vũ, nhưng cũng được gọi là Đại Vũ Vương, nghĩa là đổi Đế hiệu thành Vương hiệu.
Triều Hạ kéo dài tổng cộng 400 năm. Vị quân chủ cuối cùng của triều Hạ là một quân vương vô cùng bạo ngược tên là Kiệt. Về sau triều Hạ đã bị Thành Thang lật đổ rồi lập ra nhà Thương. Quốc tộ của triều Thương kéo dài 600 năm. Những năm cuối của triều Thương lại xuất hiện một quân vương vô cùng bạo ngược khác, chính là Trụ. Thời đại Trụ Vương đã xảy ra rất nhiều biến động, khiến lịch sử rẽ sang một hướng mới. Câu chuyện về Trụ Vương và sự suy tàn của nhà Thương được kể lại trong cuốn tiểu thuyết thần thoại “Phong Thần diễn nghĩa” cũng như trong một số thành ngữ trong dân gian, ví dụ như “trợ Trụ vi ngược” (giúp Trụ làm điều ác), v.v. đều có liên quan tới thời đại đặc biệt này.
Sau khi phạt Trụ, Vũ Vương đã lập ra nhà Chu. Nhà Chu là triều đại có thời gian trị vì lâu nhất trong lịch sử Trung Quốc, kéo dài suốt 800 năm. Khoảng thời gian 800 năm này lại phân thành hai phần: khoảng 250 năm đầu gọi là Tây Chu, khoảng 550 năm sau đó được gọi là Đông Chu.
Nhà Chu là một vương triều phong kiến, bởi vì sau khi phạt Trụ thành công, Vũ Vương đã chia thiên hạ thành rất nhiều quốc gia nhỏ lẻ, sau đó phân đất phong hầu cho ba nhóm người đến cai quản các vùng đất khác nhau. Tương truyền Chu Vũ Vương đã phân đất phong hầu cho 800 chư hầu, một bộ phận trong đó là con em hoàng tộc của ông. Ví dụ như em trai ông là Chu Công Đán được ban phong đến nước Lỗ. Nhưng Chu Công Đán đã không đến mà sai con trai của mình là Bá Cầm đến nước Lỗ để trị vì đất nước. Chu Công Đán vẫn ở lại kinh thành để phụ trách việc chế định lễ nhạc cho nhà Chu và phò tá Thành Vương.
Ngoài ra, những người lập được đại công lao trong chiến tranh cũng được chia đất phong hầu, ấy là dựa theo công trạng của họ mà phong tước. Chúng ta biết Khương Tử Nha được phong đến nước Tề. Vùng đất lớn Tề Lỗ năm xưa chính là chỉ tỉnh Sơn Đông ngày nay, toàn bộ cả một khu vực vô cùng rộng lớn ấy là được phong cho Khương Tử Nha.
Còn có một bộ phận nữa là những thần tử của triều đại trước đó. Hãy nói về Cơ Tử làm ví dụ. Có người nói Cơ Tử là anh họ của Trụ Vương, cũng có người nói ông là chú của Trụ Vương. Cơ Tử được phong đến Triều Tiên, tức bán đảo Triều Tiên ngày nay, ông cũng chính là người đầu tiên dựng nước ở nơi đó.
Nhà Chu đã phong đất cho 800 chư hầu, gồm ba bộ phận người như vậy: một là con em hoàng thân quý tộc, hai là khai quốc công thần trong lúc thay triều đổi đại, và ba là thần tử của triều đại trước đó.
Sau khi được phong tước, họ phải đến biên giới lãnh thổ của mình mà xới đất lên rồi trồng cây thông tại đó. Động tác này gọi là “phong”. Vậy chữ “phong” là chỉ việc xới đất ở nơi biên giới của mình lên mà trồng cây thông vào. Còn “kiến” thì là ý gì đây? Khi một vị vua được thiên tử chỉ định làm người thống trị của vùng đất nào đó, thì gọi là “kiến”. Vậy nên, “phong kiến” trên thực tế là “phong thổ kiến quốc”.
Chúng ta biết nhà Chu đã trải qua hai triều đại là Tây Chu và Đông Chu, cuối cùng được thống nhất bởi nhà Tần. Nhà Tần trước sau đều chưa từng làm cái việc “phong kiến”. Cũng chính là nói rằng, đến triều Tần là thực thi chế độ quận huyện, không hề có chuyện sắc phong lãnh thổ để kiến lập tiểu quốc, cũng không có những thứ như chủ quyền, thu thuế, tài chính hay quyền bổ nhiệm nhân sự. Vậy nên sau khi đến triều đại nhà Tần, Trung Quốc trên thực tế là quốc gia trung ương tập quyền.
Sách lịch sử ở nhà trường viết rằng: Bắt đầu từ triều đại nhà Tần, Trung Quốc là quốc gia phong kiến. Cách nói này không đúng, bởi nhà Chu mới thật sự là chế độ phong kiến: thiên tử phong tước cho 800 chư hầu, từ đó mà kiến lập 800 nước chư hầu.
Chúng ta cũng cần nói rõ một chút, đó là “quốc gia” trong khái niệm thời nhà Chu không giống với khái niệm quốc gia mà chúng ta biết hiện nay. Quốc gia của họ là “bang quốc” (nước lớn), cho nên mặc dù các chư hầu ở trong lãnh thổ của họ mà thành lập quân đội và chủ quyền riêng, nhưng trên thực tế họ vẫn coi quân vương nhà Chu là thiên tử, là đối tượng tiến cống. Chư hầu cũng cần phải nhận được sự sắc phong của thiên tử nhà Chu, vậy nên các quốc gia này không phải là quốc gia độc lập thật sự, mà chỉ là một khái niệm bang quốc.
Kể từ sau triều đại nhà Tần, một số vương triều cũng muốn khôi phục lại phần nào đó của thể chế cắt đất phong hầu. Lấy Lưu Bang làm ví dụ, sau khi kiến lập nhà Hán đã sắc phong rất nhiều vương hầu cho những người khác họ với mình, trong đó Hàn Tín được phong làm Sở Vương. Nhưng sau khi xưng đế, Lưu Bang lại đấu tranh diệt trừ các vương hầu khác họ với ông. Về sau vì cảm thấy các vương hầu này không đáng tin cậy, nên ông đã sắc phong cho rất nhiều vương hầu là con cháu của gia tộc mình. Mặc dù con cháu họ Lưu được lên làm vương, nhưng những vị vương hầu này cũng nối tiếp nhau làm loạn.
Chúng ta biết vào thời Hán Cảnh Đế đã xảy ra loạn bảy nước. Thông thường nếu muốn kiến lập một triều đại thì phải cắt đất phong hầu hoặc thành lập phiên trấn, nhưng nếu thực lực của các bên quá lớn mạnh thì sẽ tạo thành một cục diện chiến loạn. Tóm lại, từ sau nhà Tần thì Trung Quốc là một quốc gia theo chế độ trung ương tập quyền.
800 năm của nhà Chu chia thành hai bộ phận, khoảng chừng 250 năm đầu gọi là Tây Chu, khoảng 550 năm sau gọi là Đông Chu. Vì sao lại gọi là Tây Chu? Bởi nó định đô ở Cảo Kinh. Vị trí của Cảo Kinh là ở gần phía tây khu Tây An, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Thiểm Tây ngày nay. Đến thời của Bình Vương thì kinh đô được dời về phía đông ở Lạc Ấp, chính là thành phố Lạc Dương, tỉnh Hà Nam bây giờ. Vậy nên nói, đô thành của nhà Chu là từ vùng phụ cận Tây An di dời đến Lạc Dương, Hà Nam. Do có một đô thành ở phía tây nên gọi là Tây Chu, còn một đô thành ở phía đông nên gọi là Đông Chu.
Đại khái Đông Chu kéo dài chừng 550 năm. Khoảng thời gian 300 năm từ năm 770 TCN đến năm 475 TCN được gọi là thời Xuân Thu. Từ năm 475 TCN đến năm 221 TCN được gọi là thời Chiến Quốc. Đến năm 221 TCN, Tần Thủy Hoàng đã thống nhất Trung Hoa.
Xuân Thu – Chiến Quốc là thời kỳ xảy ra nhiều biến động to lớn trong lịch sử Trung Hoa. Các lĩnh vực từ chính trị, kinh tế, văn học, triết học, cho đến phương thức quản lý quốc gia và hệ thống luật pháp, v.v. đều đã xuất hiện và được định hình trong khoảng thời gian này. Đoạn thời gian này là thời kỳ mà các loại tư tưởng học thuật và văn thần võ tướng vô cùng sôi nổi trong lịch sử, cũng là thời đại trăm nhà đua tiếng.
Tóm lại, theo các cổ thư còn lưu lại thì nền văn minh Hoa Hạ bắt đầu từ Ngũ Đế. Ngũ Đế là chỉ Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế Cốc, Nghiêu và Thuấn. Sau Ngũ Đế còn có thuyết về Tam Vương. Tam Vương ở đây là chỉ Đại Vũ Vương kiến lập ra nhà Hạ, Thành Thang Vương dựng lập ra nhà Thương và Chu Vũ Vương kiến lập ra nhà Chu. Nhà Chu là quốc gia phong kiến, đã kiến lập tông thất lấy thiên tử làm trung tâm. Các công thần khai quốc của nhà Chu và thần tử của triều đại trước là các nước chư hầu, tổng cộng có hơn 800 nước chư hầu lớn nhỏ. Nhà Chu tồn tại 800 năm, khoảng 250 năm đầu gọi là “Tây Chu”, còn 550 năm sau này gọi là “Đông Chu”. Đông Chu lại phân thành thời Xuân Thu ở 300 năm trước và thời Chiến Quốc ở 250 năm sau. Thời Xuân Thu – Chiến Quốc là thời kỳ biến động nhất trong lịch sử Trung Hoa. Hình thái quốc gia của Trung Quốc cũng từ chế độ cắt đất phong hầu của nhà Chu mà chuyển sang thể chế trung ương tập quyền kéo dài hơn 2000 năm bắt đầu từ nhà Tần. Câu chuyện mà chúng ta bàn luận hôm nay là diễn ra vào những năm cuối thời Xuân Thu.
Nhân vật chính trong câu chuyện này tên là Ngũ Tử Tư. Ngũ Tử Tư là nhân vật có ảnh hưởng vô cùng to lớn trong lịch sử Trung Hoa. Ảnh hưởng này phân thành hai phương diện. Hãy nói về phương diện đầu tiên, đó là ảnh hưởng trong dân gian.
Truyền kỳ Ngũ Tử Tư
Chúng ta biết trong dân gian có rất nhiều ngành nghề đều phải tìm ra một ông tổ. Ví như người ta tin rằng Trương Phi từng làm đồ tể, nên coi Trương Phi là ông tổ của nghề giết mổ. Trên thực tế, trong “Tam Quốc chí” không hề ghi chép chuyện này, chẳng qua đó chỉ là lời đồn thổi trong dân gian mà thôi. Nghề đan dệt thì lấy Lưu Bị làm ông tổ, bởi Lưu Bị từng theo nghề dệt chiếu, bện giày cỏ. Nghề hát kịch thì lấy Đường Huyền Tông làm ông tổ, bởi Đường Huyền Tông vô cùng tinh thông âm luật. Vậy Ngũ Tử Tư thì là ông tổ của nghề nào đây? Ông được những người hành khất ở một số địa khu tôn là ông tổ, bởi Ngũ Tử Tư cũng từng đi xin ăn.
Chúng ta biết, khi chạy trốn từ nước Sở đến nước Ngô, Ngũ Tử Tư đã từng đi xin ăn. Trong “Sử ký” viết rằng Ngũ Tử Tư trên đường trốn chạy, khi chưa đến nước Ngô thì đã đổ bệnh, giữa đường phải đi xin ăn. Còn có một số truyền thuyết kể rằng Ngũ Tử Tư ở đô thành của nước Ngô cũng đã từng thổi sáo xin ăn. Vậy nên những người ăn xin mới lấy Ngũ Tử Tư làm ông tổ nghề của họ.
Đương nhiên, ảnh hưởng của Ngũ Tử Tư với xã hội Trung Quốc không phải nằm ở đó. Vào khoảng năm 500 TCN, Ngũ Tử Tư đã giúp đỡ nước Ngô xây dựng thành Cô Tô, cũng chính là thành phố Tô Châu, tỉnh Giang Tô ngày nay. Thành phố Tô Châu bây giờ được Ngũ Tử Tư kiến dựng nên, và đã tồn tại hơn 2500 năm. Ngũ Tử Tư văn võ toàn tài, có ảnh hưởng vô cùng to lớn trong lịch sử. Quãng đời sóng gió rung trời chuyển đất của ông kéo dài gần 30 năm, rất nhiều rất nhiều câu chuyện và thành ngữ đều có liên quan tới ông. Ví như vở “quan Văn Chiêu” trong hý kịch là câu chuyện Ngũ Tử Tư vượt quan Chiêu, hay một số thành ngữ như “Đào mộ quất roi”, “Nhật mộ đồ viễn” (trời đã xế bóng, đường về còn xa), v.v. đều là những câu chuyện về ông.
Quãng đời phong vân của Ngũ Tử Tư kéo dài 30 năm, tài văn thao võ lược của ông có ảnh hưởng vô cùng to lớn với hậu thế, cả một đời của ông cũng mang rất nhiều bi kịch: Cha và anh trai đều bị chết oan, bản thân ông cũng đã trải qua một thời kỳ trốn chạy vô cùng gian khó. Cha và anh trai ông vì sao lại phải chết oan? Chúng ta hãy bắt đầu giảng từ đây.
Ngũ Tử Tư vốn là người nước Sở. Nước Sở là một quốc gia vô cùng rộng lớn, bao quát cả vùng Hồ Bắc, Hồ Nam của Trung Quốc, từ Hồ Nam đi về phía tây nam và đông nam đều là lãnh thổ của nước Sở. Lưu vực sông Trường Giang, ngoài Giang Tô và Chiết Giang thì trên cơ bản các khu vực đi về phía nam đều thuộc về địa bàn nước Sở, hơn nữa còn bao gồm vùng lãnh thổ từ lưu vực Trường Giang về phía bắc, trong đó có Hà Nam và An Huy, ngoài ra còn có một bộ phận của Thiểm Tây, Tứ Xuyên, Quý Châu, v.v. Vậy nên có người cho rằng nước Sở là quốc gia có lãnh thổ rộng lớn nhất thế giới lúc bấy giờ với hơn 1 triệu ki-lô-mét vuông, là quốc gia vô cùng cùng lớn mạnh.
Vậy tiếp đó thì sao, và nhân vật chính của chúng ta có vai trò gì trong trận chiến giữa Ngô và Sở cuối thời Xuân Thu? Chúng ta hãy tiếp tục bàn về câu chuyện này trong kỳ tiếp theo.
(Còn tiếp)
(Theo bài viết của Giáo sư Chương Thiên Lượng được đăng tải trên NTDTV)
Theo ĐKN