Tiền kiếp là người tình của Pha-ra-ông, kiếp này phải quay về Ai Cập để hoàn thành sứ mệnh
Từ khi lên 3 tuổi, Dorothy Louise Eady đã có thể nhớ được kiếp trước của mình. Và sau đó, cô càng trở nên đặc biệt nổi tiếng khi tiết lộ về mối tình với 1 vị vua Ai Cập cổ đại trong tiền kiếp.
Sau một lần tai nạn, cô bé 3 tuổi nhớ lại tiền kiếp
Dorothy Louise Eady sinh ra tại London vào năm 1904, và lớn lên ở một thị trấn ven biển. Năm lên 3 tuổi, sau một lần bị ngã cầu thang, cô bé bắt đầu có những biểu hiện kỳ lạ, và yêu cầu được “đưa trở về nhà”. Điều này đã tạo nên một số phiền toái trong những năm tháng thơ ấu của cô.
Một lần, cô bé được cha mẹ đưa đến Bảo tàng Anh, và ngay khi vừa nhìn thấy một bức ảnh chụp mô phỏng đền thờ Ai Cập thời Tân Vương Quốc, cô bé đã thốt lên: “Đây là nhà của tôi!”, rồi lại hỏi “Những cái cây đâu rồi? Khu vườn đâu rồi?”.
Ngôi đền này thuộc về Pha-ra-ông Seti I, cha của Pha-ra-ông Ramesse II. Cô bé chạy xung quanh sảnh trưng bày cổ vật Ai Cập, hôn lên chân của các bức tượng, và tỏ ý muốn “được ở lại với đồng hương của mình”.
Từ năm 10 đến năm 12 tuổi, cô bé đã nhiều lần viếng thăm bảo tàng, dành hầu hết thời gian rảnh của mình ở đó. Chính ở đây cô đã dần làm quen với ông E.A Wallis Budge, người quản lý các món cổ vật Ai Cập trong bảo tàng. Ấn tượng mạnh mẽ với nhiệt huyết và vốn kiến thức của cô bé về Ai Cập cổ đại, ông đã khuyến khích Dorothy đi học chữ tượng hình.
Cô bắt đầu tham gia một lớp về chữ tượng hình; và người giáo viên đã rất kinh ngạc với khả năng tiếp thu nhanh chóng của cô đối với một môn học thông thường cần nhiều năm để nắm bắt. Khi được hỏi làm thế nào cô có thể học những ký hiệu phức tạp nhanh chóng đến vậy, Dorothy trả lời là cô bé không học, mà là đang nhớ lại ngôn ngữ cổ cô đã quên từ lâu.
Đến khi 15 tuổi, trong những giấc mộng của mình, cô liên tục được một linh hồn tên là Hor-Ra ghé thăm. Linh hồn này bảo cô rằng cô là đầu thai của một người phụ nữ Ai Cập tên là Bentreshyt, một nữ tu sĩ ở ngôi đền Seti I tại thành phố Abydos, Thượng Ai Cập.
Hor-Ra thường xuyên xuất hiện trong giấc mộng của cô bé trong suốt khoảng thời gian 12 tháng và kể cho cô nghe câu chuyện về kiếp trước của mình. Dorothy đã viết nhật ký về những giấc mơ đó. Cuối cùng, cô đã viết được khoảng 70 trang về kiếp trước của mình, tất cả đều bằng tiếng Ai Cập cổ đại:
Bentreshyt (Nghĩa: Đàn thụ cầm hân hoan) trong bối cảnh này ám chỉ một xuất thân bình dân, mẹ cô là một người bán rau và cha cô là một người lính trong giai đoạn trị vì của Pha-ra-ông Seti I (1290 – 1279 TCN). Khi Bentreshyt lên ba, mẹ cô qua đời, và cô đã được đưa vào đền Kom-el-Sultancha vì cha cô không thể gánh vác nổi trọng trách này. Tại đó, Bentreshyt đã được nuôi nấng để trở thành một nữ tu sĩ. Năm 12 tuổi, vị Quan tư tế tối cao (High Priest) đã đưa cho cô hai lựa chọn: hoàn tục (quay trở về thế giới bên ngoài) hoặc ở lại và trở thành một trinh nữ thánh hiến. Vì không hoàn toàn hiểu rõ điều này, cùng lúc không có một lựa chọn khả thi nào khác, cô đã phát lời thề nguyện.
Trong vòng hai năm kế tiếp, Bentreshyt đã được giao đóng vai trong buổi kịch nghệ thường niên miêu tả lại những nỗi khổ hình và sự phục sinh của thần Osiris, một vai diễn mà chỉ có những nữ tu sĩ đồng trinh đã hiến dâng cả đời mình cho nữ thần Isis mới có được. Một ngày nọ, vua Seti I đã gặp gỡ và trò chuyện với cô. Giữa họ nảy sinh tình yêu, và Bentreshyt đã phản bội lời thề của mình, khi hai người “ăn ngỗng sống” (một thuật ngữ Ai Cập cổ đại tương tự như cách nói “ăn trái cấm”). Đến khi Bentreshyt có mang, cô đã nói với vị Quan tư tế tối cao về danh tính của cha đứa trẻ. Đáp lại, vị Quan tư tế tối cao bảo với cô rằng tội phản bội nữ thần Isis là cực kỳ nghiêm trọng, và cái chết sẽ là hình phạt tất yếu tại phiên xét xử. Không muốn Seti phải đối mặt với vụ tai tiếng này, Bentreshyt đã kết liễu mạng sống của chính mình.
Dorothy đã kể lại với mọi người về một lần viếng thăm của linh hồn Pha-ra-ông Seti. Hành vi của cô, cùng với tật mộng du và các cơn ác mộng gặp phải, đã khiến cô bị đưa vào viện điều dưỡng một vài lần.
Khi ra trường vào năm 16 tuổi, Dorothy đã ghé thăm nhiều viện bảo tàng và di chỉ khảo cổ trên khắp Vương quốc Anh.
Chuyển đến sống ở Ai Cập và những kiến thức nhờ ký ức về tiền kiếp
Mãi cho đến năm 1931, khi cô bé Dorothy ngày nào được 29 tuổi, và trở thành vợ của Eman Abdel Meguid, một sinh viên người Ai Cập mà cô quen biết, thì cô mới có thể du lịch đến Ai Cập. Khi đặt chân đến đây, Dorothy đã hôn lên mặt đất và nói rằng mình đã trở về nhà.
Năm 1935, người chồng Eman nhận được một công việc giảng dạy tại Iraq, nhưng Dorothy không muốn rời xa Ai Cập, nên họ đã ly hôn, và đứa con trai ở lại với cô. Hai năm sau, cô dọn đến sống ở làng Nazlat el-Samman bên cạnh Đại kim tự tháp Giza. Ở đây cô đã gặp nhà khảo cổ học Selim Hassan rồi trở thành thư ký và người vẽ phác họa cho ông tại Cục Cổ vật Ai Cập (Egyptian Antiquities Department).
Cô là nữ nhân viên đầu tiên của Cục và là một người phụ tá đắc lực cho ông Hassan và những học giả Ai Cập, cô chỉnh sửa lại lỗi tiếng Anh của họ và viết các bài viết bằng tiếng Anh cho những người khác. Từ một người phụ nữ người Anh với trình độ học vấn hạn chế, cô đã trở thành một người vẽ phác họa hàng đầu và một cây viết tài năng.
Cô đã học hỏi được từ các học giả này những kỹ năng khảo cổ, đổi lại họ nhận được lợi ích nhờ chuyên môn của cô về các ký tự tượng hình và tranh vẽ. Với những cống hiến to lớn của mình cho ông Hassam, cô đã được nhà khảo cổ học Ahmed Fakhry chọn làm trợ lý nghiên cứu trong dự án khảo cổ của mình tại Dashur.
Ngày 3/3/1956, bà Omm Seti, lúc này đã 52 tuổi, đã trở về Abydos để tiếp nhận công việc phác thảo của mình. Ngay khi bắt đầu công việc, bà đã lập tức cho thấy vốn hiểu biết của mình về ngôi đền Seti I, vượt xa những gì được ghi chép trong sách vở, trên thực tế không thể được tìm thấy ở bất kỳ nguồn tư liệu nào.
Một lần nọ, giám đốc Cục Cổ vật đã quyết định kiểm chứng những lời tuyên bố của Omm Seti về một kiếp sống trước đây của bà. Đứng trong một căn phòng gần như tối om với một loạt các bức tranh treo tường, bà được yêu cầu phải chỉ ra vị trí và nhận diện mỗi bức tranh dựa trên ký ức tiền kiếp của mình. Mỗi lần bà đều có thể xác định chính xác vị trí, nhận diện và miêu tả chi tiết mỗi bức tranh, dù rằng bà chưa bao giờ nhìn thấy chúng trước đây. Và tại thời điểm đó chưa có bức tranh nào hay địa điểm chính xác của chúng từng được công bố trong bất kỳ tư liệu nào.
Omm Seti có khả năng xác định các di tích khảo cổ dựa trên các “ký ức tiền kiếp” của mình. Bà cho rằng phải có một khu vườn nằm cạnh ngôi đền Seti I. Quả nhiên, sau khi khai quật, các nhà khảo cổ học đã phát hiện được một khu vườn đúng theo miêu tả của bà. Bà cũng cung cấp các chi tiết về ngôi đền Osirion nằm phía sau đền Seti I và tuyên bố rằng Tượng nhân sư cổ hơn nhiều, rất nhiều so với nhận định của các chuyên gia.
Khả năng tìm kiếm các di chỉ và cổ vật thất lạc của bà đã trở nên nổi tiếng đến nỗi một nhà Ai Cập học người Anh từng tuyên bố rằng: “Nếu Omm Seti vẫn còn ở đây tôi sẽ nghe theo chỉ dẫn của bà khi tìm kiếm các thứ, vào bất cứ lúc nào, hơn là nghe theo những trang thiết bị tối tân nhất hiện nay”. Câu nói này của ông đã nhận được sự ủng hộ của các đồng nghiệp.
Tuy nhiên, ngoài vốn kiến thức sâu sắc và lạ thường của bà về Ai Cập cổ đại, Omm Seti cũng có những biểu hiện thần kỳ khác. Bà thường dậy sớm vào mỗi buổi sáng, ngâm mình trong bể nước tại đền thờ Osireion (ngay đằng sau đền Seti I) để tẩy tịnh thân thể, sau đó đi chân trần vào điện thờ để cầu nguyện mỗi ngày. Bà không sợ rắn hổ mang, có khả năng yểm bùa chúng và dùng tay không “bón” cho chúng ăn mà không sợ bị cắn.
Người dân quanh vùng kể lại rằng bà từng nhảy xuống bể nước tại đền thờ Osireion để chữa bệnh cho bản thân. Bà tuyên bố rằng chính bể nước thần thánh này đã giúp bà khỏi bệnh viêm khớp, viêm ruột thừa, và không phải đeo kính mắt. Bà cũng đã từng tự chữa chứng nhiễm trùng mắt nhờ sử dụng các câu thần chú được khắc trên các bức tường ngôi đền.
Omm Seti miêu tả đền thờ Seti I giống như tiến vào một cỗ máy thời gian, khi quá khứ trở thành hiện tại và bộ óc hiện đại sẽ gặp khó khăn để hiểu được một thế giới mà trong đó ma thuật ‘hiện diện’.
Bà tuyên bố rằng những cảnh tượng được khắc họa trên những bức bích họa trong đền thờ vẫn “sống động” trong tâm trí của người Ai Cập cổ đại ở hai cấp độ. Thứ nhất, chúng khiến hoạt động được miêu tả trong tranh trường tồn mãi mãi. Lấy ví dụ, bức tranh khắc họa một Pha-ra-ông dâng bánh mỳ cho thần Osiris sẽ khiến hành động này được tiếp diễn mãi mãi chừng nào bức tranh này tồn tại. Thứ hai, bức tranh có thể trở nên sống động bởi linh hồn của thần, nếu như một người đứng trước bức tranh và niệm tên của vị thần đó.
Ngay cả khi được nghỉ cho hưu vào năm 1969, bà vẫn đảm nhiệm vai trò cố vấn bán thời gian cho Cục Cổ vật, hướng dẫn du khách thăm quan đền thờ Seti I và giải thích ý nghĩa biểu tượng của các cảnh tượng được vẽ trên tường.
Mong ước cuối đời
Omm Seti từng nói: “Cái chết không làm tôi sợ hãi. Tôi sẽ cố gắng hết sức để qua được nghi thức cân trái tim. Tôi sẽ tiến tới trước thần Osiris, và ngài có lẽ sẽ nhìn tôi bằng ánh mắt bi thảm vì tôi biết rằng tôi đã phạm phải một tội lỗi không nên có”.
Người Ai Cập cổ đại tin rằng linh hồn mỗi người sẽ được thẩm phán bởi thần Osiris tại Đại sảnh Sự thật (Hall of Truth), bằng cách đo lường trái tim của một linh hồn với trọng lượng của một chiếc lông. Nếu trái tim nhẹ hơn, linh hồn sẽ tiếp tục cuộc hành trình. Nếu trái tim nặng hơn, linh hồn sẽ bị một con quỷ ăn tươi nuốt sống nên không còn tồn tại nữa – trạng thái vô tồn được coi là một kết cục còn tệ hại hơn cái chết.
Bà Dorothy mất vào năm 1981, hưởng thọ 77 tuổi và được chôn cất tại nghĩa trang Coptic ở Abydos. Bà cho rằng cái chết sẽ cho phép bà đoàn tụ với người mình yêu.
Theo Daikynguyenvn