Chuyện kể về nhà tiên tri kiệt xuất Việt Nam sinh cùng thời với Nostradamus
Mọi người biết đến Nostradamus là một nhà tiên tri nổi danh của nước Pháp thế kỷ 16. Cùng thời gian này, trong danh sách dài những nhân vật xuất chúng của lịch sử Việt Nam cũng có một nhà tiên tri kiệt xuất. Ông chính là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585), hiệu là Bạch Vân cư sĩ, dân gian hay gọi Trạng Trình, là một nhà văn hóa lỗi lạc của Việt Nam trong thế kỷ 16. Ông được người đời biết đến vai trò một nhà thơ lớn, một thầy giáo nổi tiếng tài năng và đức độ. Đậu Trạng nguyên rồi làm quan dưới triều Mạc, ông được phong tước Trình Tuyền Hầu rồi thăng tới Trình Quốc Công, từ đó mà có cái tên Trạng Trình.
Không chỉ giỏi văn chương, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn là một nhà tiên tri nổi tiếng với tài dự đoán nhiều sự kiện hệ trọng trong suốt chiều dài lịch sử. Cuốn Phả ký Nguyễn Bỉnh Khiêm năm 1743 đã nhận xét: “Ông là người khôi ngô anh tuấn, học hết các kinh sách lại rất tinh tế về nghĩa lý Kinh Dịch. Phàm việc mưa nắng, lụt hạn, họa phúc, điềm dữ, điềm lành, cơ suy, cơ thịnh… việc gì cũng biết trước”.
Ông đã để lại cho đời 487 câu sấm ký gọi là “Sấm Trạng Trình” cách đây đã trên 500 năm. Thật lạ lùng là có rất nhiều sự kiện lịch sử Việt Nam và thế giới suốt 500 năm qua ứng nghiệm với “lời sấm Trạng Trình”. Lịch sử khoa cử Việt Nam có hàng chục trạng nguyên, nhưng ít có ông trạng nào mà tên tuổi lại được nhắc tới với nhiều giai thoại kỳ bí như Nguyễn Bỉnh Khiêm. Là một nhà thơ lớn của dân tộc, Nguyễn Bỉnh Khiêm đề cao tư tưởng nhân nghĩa, hòa bình. Chính ông là người đầu tiên nhắc tới hai chữ Việt Nam trong các tác phẩm của mình.
Là một người thầy lớn, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước. Học trò của ông, người theo nhà Mạc, người theo nhà Lê. Ngoài triều Mạc, cả họ Trịnh, họ Nguyễn, những người thuộc các phe đối lập, cũng đều tôn kính ông, thường xin ý kiến ông về nhiều vấn đề hệ trọng. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chỉ cho họ tất cả. Họ đều thấy sự chỉ dẫn của ông là đúng, nên ông được xem như bậc đại hiền, một ông trạng tiên tri…
Những lời khuyên thay đổi vận mệnh con người
Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng là hai con của tướng Nguyễn Kim. Năm 1568, khi Nguyễn Hoàng thấy anh ruột là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm (anh rể) giết, bèn sai người đến xin ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm, lúc này đã 77 tuổi, đang sống ẩn dật ở Am Bạch Vân. Không trả lời trực tiếp, ông dẫn sứ giả ra hòn non bộ, chỉ vào đàn kiến đang bò và nói: “Hoành sơn nhất đái, khả dĩ dung thân” (Một dải Hoành Sơn có thể dung thân được). Hiểu được ý ấy, Nguyễn Hoàng nhờ chị gái xin với anh rể Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa từ đèo Ngang trở vào, từ đó lập ra nhà Nguyễn ở phương Nam. Về sau sử nhà Nguyễn sửa thành “vạn đại dung thân”, hy vọng sẽ giữ được cơ nghiệp mãi mãi.
Ở Thăng Long, Trịnh Kiểm cũng muốn bỏ Vua Lê để tự xưng vương. Khi cho người đến hỏi ý kiến của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông không trả lời mà dẫn sứ giả ra chùa, thắp hương mà nói: “Mấy năm nay mất mùa, nên tìm thóc giống cũ mà gieo“. Rồi lại bảo chú tiểu quét dọn chùa sạch sẽ và nói: “Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản“. Hiểu ý, Trịnh Kiểm không dám phế bỏ nhà Lê mà phò Vua Lê để lập nghiệp Chúa.
Phùng Khắc Khoan đến gặp Nguyễn Bỉnh Khiêm, với ý muốn nhờ thầy cho một lời khuyên: Có nên bỏ nhà Mạc để vào Thanh Hóa với triều đình Lê – Trịnh? Cả buổi chiều trò chuyện, Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ hỏi tình hình, nói chuyện văn chương chứ không trả lời. Đêm ấy Phùng Khắc Khoan ngủ lại tại nhà thầy. Sang canh tư, Nguyễn Bỉnh Khiêm đến phòng ngủ của học trò, đứng ngoài gõ cửa và nói vọng vào: “Gà đã gáy rồi, trời đã sáng, sao không dậy, ngủ mãi ư“.
Phùng Khắc Khoan nghe xong, suy nghĩ, và đoán rằng thầy gián tiếp bảo thời cơ đã đến, có thể vào giúp nhà Lê. Ông vội vàng thu xếp hành lý, đợi đến lúc mặt trời mọc thì vào giã từ thầy. Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn không nói gì, chỉ cuốn một chiếc chiếu ngắn ném theo. Phùng Khắc Khoan nhặt lấy chiếu, vừa đi vừa nghĩ: “Phải chăng đây là ý dặn mình cần hành động gấp và dứt điểm như cuốn chiếu”.
Khi Nguyễn Bỉnh Khiêm gần mất, nhà Mạc cho người đến hỏi ông về kế lâu dài. Ông đáp: “Cao Bằng tuy tiểu, khả diên sổ thế” (Đất Cao Bằng tuy nhỏ nhưng dựa vào đó có thể kéo dài được vài đời). Sau quả đúng như vậy, nhà Mạc rút lên Cao Bằng và còn duy trì được sự tồn tại của mình hơn 80 năm sau.
Những lời sấm truyền kỳ lạ
“Ngã cứu nhĩ thượng lương chi ách
Nhĩ cứu ngã thất thế chi tôn”.
(Ta cứu ngươi thoát khỏi ách xà rơi
Ngươi nên cứu cháu bảy đời của ta)
Đến đời Vua Minh Mệnh (1820 – 1840) trong dân gian lưu truyền một câu sấm: “Gia Long nhị đại, Vĩnh Lại vi Vương” (đời thứ hai Gia Long, người ở Vĩnh Lại làm vua). Vua Minh Mệnh vốn tính đa nghi. Biết được mấy câu sấm ấy, nhà vua vừa có ý đề phòng, vừa căm giận Trạng Trình. Tổng đốc Hải Dương lúc bấy giờ là Nguyễn Công Trứ được lệnh đến phá đền thờ Trạng Trình.
Nguyễn Công Trứ cho lính đến, cứ y lệnh triều đình cho đập tường, dỡ nóc. Nhưng khi tháo cây thượng lương ra thì một cái hộp nhỏ đã để sẵn trong tấm gỗ, rơi xuống. Quân lính nhặt đưa trình chủ tướng, Nguyễn Công Trứ mở xem, trong đó có một mảnh giấy đề chữ:
“Minh Mệnh thập tứ
Thằng Trứ phá đền
Phá đền thì lại làm đền
Nào ai cướp nước tranh quyền gì ai“.
Nguyễn Công Trứ vội ra lệnh dừng ngay việc phá đền, khẩn cấp tâu về triều đình, xin làm lại đền thờ Trạng Trình.
Một tập sấm mở đầu có các câu:
“Nước Nam thường có thánh tài
Sơn hà vững đạt mấy ai rõ ràng
Bãi ngọc đất nổi, âu vàng trời cho
Học cách vật mới dò tới chốn…”
Mấy trăm năm trước cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khẳng định đất Việt có nhiều người tài giỏi, cùng với nhân dân giữ vững đất nước qua biết bao nguy biến. Đất nước cũng có nhiều tài nguyên phong phú cần được khai thác. Đảo Sơn phải chăng là Vũng Tàu – Côn Đảo? Nơi có tiềm năng về dầu khí và có vị trí kinh tế chiến lược? Những lời sấm ấy cũng khẳng định phải có khoa học – kỹ thuật (học cách vật) mới có thể khai thác tốt và sử dụng tốt những tài nguyên đó, những “âu vàng trời cho”.
Lời tiên tri không chỉ linh nghiệm ở Việt Nam
Theo lời nhà thơ Nguyễn Thụy Kha – người chuyên nghiên cứu Trạng Trình, có những câu sấm truyền của cụ còn tiên đoán cả những sự kiện thế giới. Điển hình như câu: “Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh – Can qua xứ xứ khổ đao binh – Mã đề dương cước anh hùng trận – Thân dậu niên lai kiến thái bình”. Câu này dịch nôm na nghĩa là cuối năm Thìn đầu năm Tỵ sẽ khởi đầu có chiến tranh, ứng với Chiến tranh thế giới lần 2 – cuộc chiến thảm khốc bậc nhất lịch sử chiến tranh hiện đại.
Thế chiến thứ 2 rục rịch từ khi phát xít Đức tấn công Ba Lan cuối năm 1939 đến khoảng cuối năm 1940 (cuối năm Thìn – Long vĩ), sang năm 1941 (đầu năm Tỵ – Xà đầu) Hitler tấn công Liên Xô. Qua cuối năm 1942, giữa năm 1943 (Mã đề dương cước) thì đến năm 1944 – 1945 (Thân Dậu niên lai kiến thái bình) hòa bình mới lập lại.
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống gần hết một thế kỷ với bao thăng trầm của cuộc đời. Ông có một tâm hồn cao đẹp kết tinh từ tư tưởng “Tam giáo đồng nguyên” Nho – Đạo – Phật. Điều đó được nhà nghiên cứu Trần Khuê đúc kết lại như sau:
“Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất thân từ của Khổng, ông đi ngang qua sân nhà Lão Tử, rồi dừng lại trước cửa Thiền, suy ngẫm về giáo lý và đạo lý, cuối cùng ông đã trở về với đồng ruộng và lũy tre xanh của làng quê Việt Nam, hay nói khác đi, ông đã trở về với dân tộc. Suốt đời ông, ông đã sống như mình cần sống và đã hành động như mình cần hành động”.
Theo Daikynguyenvn