Tìm về Nho gia – Một thời huy hoàng của nữ quyền truyền thống
Ngày nay, hễ nhắc đến Nho gia, người ta vẫn thường cho là “phong kiến”, “cổ hủ”, là hủy hoại cuộc đời người phụ nữ. Nhưng ít ai để ý rằng, nữ quyền trong Nho gia đã từng phát triển rất huy hoàng.
Nho gia đã là quá khứ, bởi vì có những giá trị của Nho gia không còn có thể áp dụng trực tiếp vào thời hiện đại. Nhưng với tôn chỉ “không phải phục hưng Nho gia, mà là phục hưng đạo đức”, chúng ta hãy cùng nhìn nhận lại lịch sử để có một cái nhìn khách quan hơn về hình tượng người phụ nữ của Nho gia.
1. Những người phụ nữ làm nên lịch sử
Nói đến Nho gia không thể không nói đến lễ giáo và chế độ tông thất. Mà bàn về hai điều này, thì phải lấy triều Tống, thời điểm khi chế độ tông tộc hưng khởi làm ví dụ. Đây có thể nói là thời kỳ mà lễ giáo chân chính phát triển nhất.
Về phương diện giáo dục, khi Âu Dương Tu mới học chữ, là do mẹ dạy, còn lưu lại câu chuyện về việc lấy lau làm bút. Thời niên thiếu của Tô Thức, cũng do mẹ dạy đọc “Hán thư”. Chu Tất Đại thời niên thiếu, mẹ cũng “trực tiếp đốc thúc đọc sách, thường thức tới nửa đêm… lại dạy làm thơ”.
Dựa vào thành tựu của các đại phu nhà Tống, thì sự dạy dỗ của người mẹ thời vỡ lòng quả thực là không thể không nhắc đến. Như vậy chẳng phải các bậc mẫu thân xưa cũng rất mực trí tuệ?
Lại nói về phương diện trị gia, thường thường người xưa là từ “nghiêm” mà trị. Ví dụ khi một vị quan nổi tiếng thời Tống là Bao Thanh Thiên qua đời, thì vợ ông là Đổng thị liền tiếp quản vị trí chủ gia đình “trang nghiêm chặt chẽ”, xử lý các mối quan hệ thân thiết thì cũng giống như Bao Chửng, “phàm là việc phi nghĩa, thì nhất định không liên quan”, những lúc rảnh rỗi thì “đọc sách Phật để tu tính”. Vậy thì đâu thể nói rằng người phụ nữ không thể đảm đương trách nhiệm gia đình?
Hơn thế nữa, phụ nữ cũng không chỉ giới hạn là người tiếp quản gia đình, mà cũng trợ giúp lo việc bên ngoài. Ví dụ như khi Mai Nghiêu Thần tiếp đãi các sĩ phu xử lý công sự, thì vợ là Tạ thị thường đứng sau bình phong lắng nghe, sau đó cùng với Mai Nghiêu Thần bàn bạc xem sĩ phu có phải là người hiền hay không, việc đó được mất thế nào, phân tích rất cụ thể và rõ ràng. Mai Nghiêu Thần cũng tán thưởng vợ với người ngoài. Điều này nói rõ rằng thời đó kẻ sĩ đại phu tán thành phụ nữ tham dự vào việc công, không có ai cho rằng đó là “phụ nữ tiếm quyền”.
Nói đến sự tôn sùng đối với địa vị của phụ nữ thời đó, thì không thể bỏ qua việc người phụ nữ tham gia chính sự. Các học giả hiện đại cho rằng sự hạ thấp địa vị của phụ nữ là bắt đầu từ thời nhà Tống, trên thực tế thời Tống lại là thời có nhiều Thái Hậu buông rèm nghe chính sự nhất, trong đó phải kể đến:
Chân Tông Lưu Hậu: Bà thông tường sách sử cổ kim, am hiểu chính sự, giúp đỡ được vua Chân Tông. Mỗi ngày phê đọc tấu chương và đi vi hành, bà đều phải ở bên vua. Khi Chân Tông lâm trọng bệnh, các việc chính sự tâu lên thực chất đều do một tay bà thu xếp. Sau này, bệnh của vua ngày càng nặng, liền hạ chiếu chính thức giao việc triều chính cho hoàng hậu.
Khi Chân Tông mất, bà trở thành Hoàng thái hậu nhiếp chính đầu tiên của thời Tống, thực hiện quá trình chuyển giao quyền lực từ thời Chân Tông sang thời Nhân Tông một cách êm thấm, tạo cơ sở cho sự phát triển phồn vinh của nhà Tống ở thời vua Nhân Tông.
Nhân Tông Tào Hậu: Tào hoàng hậu tinh thông kim cổ, là người hiền đức. Vì dung mạo của bà không đặc biệt xuất chúng nên không được vua Nhân Tông sủng ái nhiều. Nhưng đối với các mỹ nhân đắc sủng, bà cũng không hề tính toán so đo. Bà trở thành Hoàng thái hậu nhiếp chính dưới thời Tống Anh Tông Triệu Thự, và trở thành Thái hoàng thái hậu đầu tiên của nhà Tống dưới thời Tống Thần Tông Triệu Húc.
Anh Tông Cao Hậu: Trong thời gian chấp chính, bà chủ trương tiết kiệm, thực thi lễ pháp anh minh, đất nước yên bình và hưng thịnh. Bà được đánh giá có tài chấp chính, làm đất nước phồn vinh, ngoài ra cũng nổi tiếng bởi sự hiền minh lễ độ. Sử gia Tống triều xưng bà làm “Nữ trung Nghiêu Thuấn”, hàm ý ví bà như bậc kiệt xuất của nữ nhi, cũng giống như vua Nghiêu vua Thuấn thời cổ đại là hình tượng mà nam nhi theo đuổi.
Thần Tông Hướng Hậu: Hướng hoàng hậu giữ ngôi chính cung trong vòng 18 năm, được đánh giá là hiền huệ, ôn hòa lễ độ, quán chủ hậu cung một cách anh minh, sáng suốt. Bà trở thành hoàng thái hậu dưới thời Tống Triết Tông, và có vai trò quan trọng trong việc đăng cơ của Tống Huy Tông. Khi Huy Tông lên ngôi, Hướng thái hậu sau sáu tháng nghe chính sự, hạ chỉ hết buông rèm, từ đó Tống Huy Tông đích thân chấp chính.
Những vị Hoàng hậu trên đây đều từng buông rèm nhiếp chính, nhưng hình thức khác xa với việc Lữ Hậu chuyên quyền vào thời Hán, hay Võ Tắc Thiên xưng đế vào đời Đường. Họ hoặc là được quần thần mời, hoặc được tiên đế phó thác, mới từ hậu cung bước lên đài chính trị. Hơn nữa, trong số họ không có một ai là không xuất phát từ tâm muốn phò tá ấu chúa, dẹp loạn phản chính, đẩy lùi kẻ tiểu nhân, hoặc giả tránh xa ngoại thích, vì để giữ lại cơ nghiệp của tổ tiên, vì để bảo vệ giang sơn Đại Tống, do vậy có thể lưu danh muôn đời, danh lưu thiên cổ.
Triều Tống giống như một đại gia tộc mà nhiều đời liên tiếp sống cùng nhau, các vị nữ chủ của triều Tống chính như một người đứng đầu gia tộc, nhận được sự kính yêu của dòng tộc. Mà những người phụ nữ này có thể có được tài năng, đức hạnh, năng lực kiệt xuất như vậy, lại là được lợi ích từ thực tiễn và hồng dương của lý tưởng “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” của Nho gia. Đây mới là địa vị của phụ nữ trong quan hệ với lễ giáo Nho gia, và chế độ tông thất.
Đương nhiên, không thể phủ định rằng lễ giáo từ thời Tống đến thời Thanh càng về sau thì càng suy kém và có các loại biểu hiện không được như ý. Nhưng ví như con người có sinh lão bệnh tử, thì bất kể một hệ tư tưởng nào, một loại chế độ nào cũng đều có quá trình “thành trụ hoại” của nó. Chúng ta thảo luận về bất kể hiện tượng nào, đều cần xem về tình huống vào thời kỳ chính thường của nó. Không thể vì người ta sắp lâm chung mà phủ định cả đời, không thể vì trong các việc có việc bất thành mà phủ định những thành công trước đó.
Nho gia và chế độ tông thất ở thời kỳ hưng thịnh, thực sự không phải là bức hại phụ nữ. Vậy vì sao người thời nay lại chỉ trích Nho gia đến như vậy?
2. Phụ nữ của Nho gia và phụ nữ trong Cách mạng văn hóa
Vấn đề nữ quyền thời xưa luôn là một chủ đề được đưa ra bàn tán sôi nổi trong giới các học giả phản truyền thống ủng hộ tân tiến. Họ thậm chí còn viết sách kết tội Nho gia và chế độ tông thất đã khiến cuộc sống của người phụ nữ cổ đại lầm than cơ cực. Nhưng những gì mà các học giả phản truyền thống nói là sự thật hay chỉ là sản phẩm của một thời kỳ Cách mạng Văn hóa đau thương tại một số nước phương Đông?
Ngày 5/8/1966, Biện Trọng Vân, một cô giáo của Trường Trung học Nữ thuộc Đại học Sư phạm Bắc Kinh, bị các nữ sinh của mình bắt diễu đi trên phố, đội một chiếc mũ lừa cao làm bằng giấy, mặc quần áo vấy đầy mực đen, quàng một chiếc bảng đen sỉ nhục qua cổ, đi giữa đám học sinh mang những thùng rác làm trống để vỗ. Cô bị bắt phải quỳ trên mặt đất và bị đánh bằng một cái gậy gỗ có đóng đinh lởm chởm và bị đổ nước sôi lên người. Cô giáo đó đã bị tra tấn đến chết.
Một cô giáo bị nữ sinh của mình đánh chết, Đại Cách mạng Văn hóa đã bắt đầu bằng việc sỉ nhục phụ nữ như vậy…
Và với một thứ logic không thể hiểu nổi, người ta hô hào phá bỏ xiềng xích của người phụ nữ cũng trong Đại cách mạng văn hóa…
Muốn hiểu được về hình tượng người phụ nữ trong Nho gia, chúng ta không thể không quay trở về thời Cách mạng Văn hóa. Khi đó, với khẩu hiệu “Phá tứ cựu”, người ta đã đổ cho văn hóa truyền thống mọi loại tội lỗi, khiến Nho – Phật – Đạo đều chịu thiệt hại nặng nề. Cách thức phá hoại bao gồm ba hình thức chính:
Đoạn chương thủ nghĩa: Lấy ra một câu trích dẫn trong kinh sách, nhưng vứt bỏ đi toàn bộ ngữ cảnh mà nó đang biểu đạt. Ví như câu “nam tôn nữ ti” vốn bắt nguồn từ Kinh dịch, nói về sự hòa hợp âm dương của Trời đất nằm trong con người, thì lại bị đem ra phê phán là thứ “trọng nam khinh nữ” của Nho gia.
Râu ông nọ cắm cằm bà kia: Lấy lời của người nọ gán cho miệng của người kia. Ví như câu “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” vốn do con trai Tần Thủy Hoàng theo Pháp gia mà nói. Câu này cuối cùng lại bị gán cho Nho gia của Khổng Tử. Tượng tự, những hủ tục “phụ nữ chân bó” bị cưỡng ép vào là lỗi lầm của Nho gia. Nhưng lật khắp Tứ thư – Ngũ Kinh cũng không có yêu cầu phụ nữ phải bó chân cho đẹp.
Phóng đại phía phụ diện của đạo lý: Cách hạ nhục này khiến một đạo lý trở nên xấu xí trong mắt người hiện đại. Mỗi đạo lý đều có hai mặt của nó, việc nhìn nhận nó một cách phiến diện sẽ khiến đạo lý đó bị chụp mũ thành “phong kiến”, “lạc hậu” một cách dễ dàng.
Hình tượng người phụ nữ Nho gia cũng trong Cách mạng Văn hóa mà bị hủy hoại như thế.
Vậy hình tượng người phụ nữ Nho gia là như thế nào?
Từ góc độ lịch sử, hình tượng người phụ nữ của Nho gia không phải là xấu, và thật ra từ lý luận, Nho gia cũng không hề hạ thấp người phụ nữ. Để hiểu được bản chất của những đạo lý mà Nho gia đề cập đến, chúng ta cần phải đặt mình vào hoàn cảnh thời bấy giờ. Bởi vì chúng ta sẽ không cách nào hiểu được người xưa nếu như đặt đạo lý truyền thống vào trong tư duy của thời hiện đại. Dưới đây chỉ xin được đưa ra một góc nhìn trên quan điểm của người xưa:
Từ thiên tính đến bổn phận: Con người có nam có nữ, có âm có dương, đây là lẽ tự nhiên, là thiên tính của con người vậy. Chẳng thế mà, dù có phụ thuộc về mặt vật chất hay không, người phụ nữ vẫn luôn muốn dựa dẫm về mặt tinh thần đối với người chồng của mình. Cũng bởi vì thiên tính đó, người phụ nữ được giao cho trách nhiệm lớn đối với gia đình. Phụ nữ mạnh mẽ bên trong sự nhu hòa, trí tuệ bên trong sự khiêm nhường, là người quán xuyến nhà cửa. Điều đó đàn ông có thể giúp đỡ, nhưng không thể làm được trọn vẹn.
Hơn nữa, có một đạo lý rằng, núi không thể có hai hổ. Vấn đề tranh cãi của hai vợ chồng rốt cuộc phải có một người đứng ra quyết định khi không tìm được tiếng nói chung. Người phụ nữ có thể hạnh phúc không, khi một mặt họ muốn người chồng trở thành chỗ dựa, mặt khác lại muốn “quản hết”, muốn phần thắng thuộc về mình, muốn cường ngạnh như nam giới? Đó chính là mâu thuẫn của người phụ nữ hiện đại. Nếu thực sự có mâu thuẫn, thì người phụ nữ có thể dùng cái nhu của mình để đối đãi, có thể lấy nhu mà nhẫn chịu, cũng có thể lấy nhu mà thắng cương, nhưng nhất quyết vẫn nên là người phụ nữ.
Vậy nên, thiên tính và sinh lý con người đã xác định bổn phận của người vợ lẫn người chồng.
Từ bổn phận đến trách nhiệm: Mang bổn phận chu toàn cho gia đình cũng có nghĩa rằng, người phụ nữ cần phải là điểm tựa vững chãi cho chồng, cho con. Người phụ nữ xưa lấy chồng ở tuổi còn rất trẻ, khó mà có khả năng gánh vác như người đàn ông. Vậy nên người phụ nữ cần làm tốt trách nhiệm của mình trong gia đình để hỗ trợ người chồng an tâm bươn chải. Người phụ nữ cũng cần giáo dục con cái cho nên người. Bởi vậy, người ta nói rằng, nhà sẽ không phải là nhà nếu thiếu vắng một người phụ nữ, thật sự là như vậy.
Từ trách nhiệm đến giá trị đạo đức: Trong hoàn cảnh thiên tính hình thành nên bổn phận, bổn phận hình thành nên trách nhiệm, xã hội cũng từ đó mà tôn sùng giá trị đạo đức của người phụ nữ. Đơn cử như khi một vị Vua băng hà, nếu Hoàng hậu không giúp sức cho ấu chúa mà cải giá với người ở dòng tộc khác, thì hỗn loạn chắc chắn sẽ xảy ra, dẫn đến đau khổ và cơ cực cho dân chúng.
Cũng tương tự như vậy, nếu người chồng mất đi, mà người vợ không lo cho con cái, giúp con mình trưởng thành, trở thành “nóc nhà” thay thế cha, thì mái nhà đó sẽ sụp đổ. Đây là trách nhiệm của người phụ nữ, cũng là nói khi chồng mất, người phụ nữ sẽ tạm thời đóng cả vai trò là “nóc nhà”. Người ta tôn sùng những người phụ nữ có thể hy sinh cho con bởi vì đó chính là tình mẫu tử. Vậy nên mới có câu “phu tử tòng tử”.
Vậy vì sao người đàn ông lại có thể tiếp tục đi bước nữa khi vợ mất? Bởi vì nam giới thực sự không có được sự chu toàn cho gia đình như nữ giới. Hơn nữa, đặt trên vai người đàn ông là trách nhiệm đối với dòng tộc. Vậy nên người chồng không thể không tìm kiếm một người phụ nữ khác để gánh vác công việc gia đình và duy trì nòi giống. Tất nhiên, bên cạnh những người phụ nữ thủ tiết nuôi con, vẫn có những người đàn ông không hề lấy thêm vợ.
Mặc dù người hiện đại có những nhìn nhận khác biệt về quyền lợi của người phụ nữ, nhưng đặt trong tư duy của người xưa, những giá trị của người phụ nữ không hề bị coi nhẹ. Nho gia đơn thuần chỉ là đưa ra một trật tự xã hội, trong đó sự phân chia trách nhiệm đã dẫn đến những giá trị đạo đức khác nhau của nam và nữ. Mà một trong những giá trị đạo đức cao nhất vẫn là: “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” (Cái gì mà mình không muốn thì đừng làm cho người khác).
Nếu bạn vẫn cảm thấy giá trị của Nho gia là khó tiếp thụ, thì thật ra những giá trị tương tự của Phật gia và Đạo gia cũng không hề dễ tiếp thụ. Phật gia giảng rằng tăng nhân xuất gia thì cần phải đoạn dứt duyên thế tục, không nhận cha mẹ vợ con, không được ham nữ sắc, càng không được kết hôn. Người thời nay vẫn hoàn toàn có thể chấp nhận. Tuy nhiên trong thời Cách mạng Văn hóa, Phật gia cũng từng bị buộc tội là “gây ra cái chết của biết bao nhiêu đôi nam thanh nữ tú”. Thực chất, đây chính là sự phóng đại quá mức phía phụ diện của một đạo lý trong Cách mạng Văn hóa.
3. Nữ quyền vốn là giá trị phổ quát của nhân loại
Phụ nữ là phái yếu – Không chỉ người phương Đông quan niệm như vậy. Khi con tàu Titanic huyền thoại chuẩn bị chìm vào đáy đại dương, có một câu nói vượt lên trên những bài học về tiền bạc và sự tự mãn, vượt lên trên những nỗi đau, một câu nói kết tinh chuẩn mực đạo đức của cả nhân loại:
“Phụ nữ và trẻ em lên trước!”
“Phụ nữ và trẻ em lên trước!” – Đó là lệnh của thuyền trưởng, nhưng tại sao mọi người lại phải tuân theo? Không có bất cứ điều lệ nào bắt buộc người ta phải làm thế. Không ai có quyền yêu cầu người khác phải từ bỏ sinh mạng của mình cho kẻ yếu hơn. Không có một logic nào về mặt thể lực hay kinh tế để những con người vốn khỏe mạnh và giàu có hơn lại nhường chỗ cho những người yếu hơn được sống. Nhưng những con người trên tàu Titanic vẫn làm thế. Điều đó là một minh chứng hùng hồn cho sự thật rằng:
Nữ quyền vốn luôn là giá trị phổ quát của toàn nhân loại.
Trong hôn nhân, vợ trao cả cuộc đời cho chồng, chồng mang trọng trách đối với vợ. Dưới lễ giáo thời xưa, vợ chồng khi kết hôn có tam bái là: bái thiên địa, bái cha mẹ, bái phu thê. Bái thiên địa là lời thệ ước đối với Trời đất về trách nhiệm của mỗi người, làm đúng thiên chức, âm dương hòa hợp. Bái cha mẹ là thể hiện sẽ tôn kính và hiếu thuận với bề trên. Bái phu thê là ý nguyện rằng sẽ “tương kính” lẫn nhau, cùng nhau vượt qua mọi trở ngại thăng trầm trong cuộc sống.
Vắng chồng thì nhà không có nóc, vắng vợ thì nhà không còn là nhà. Nhưng người vợ hoàn toàn có thể đảm nhận trọng trách dùm chồng những khi có khó khăn xảy ra, cũng giống như những vị Hoàng hậu, Thái hậu và Thái hoàng thái hậu thời Tống. Người phụ nữ có đức lớn, là bởi vì người phụ nữ có sức mạnh bên trong sự nhu thuận, có trí tuệ bên trong sự khiêm nhường. Đó mới là người phụ nữ chân chính!
Người phụ nữ có đức lớn, là bởi vì người phụ nữ có sức mạnh bên trong sự nhu thuận, có trí tuệ bên trong sự khiêm nhường.
Tại sao ngày nay người ta lại liên tục kêu gọi phụ nữ ngừng hy sinh? Tại sao lại phải kêu gọi phụ nữ hãy chia sẻ việc nhà? Đúng, người phụ nữ hiện đại rất khổ, bởi vì người phụ nữ truyền thống chỉ tập trung vào lo cho mái ấm, còn người phụ nữ hiện đại vừa phải lo cho gia đình, vừa phải đi làm kiếm tiền.
Nói thẳng ra, nỗi khổ của người phụ nữ là hậu quả của Cách mạng Văn hóa với cái gọi là “giải phóng phụ nữ” cùng những khẩu hiệu tuyên truyền thời chiến kiểu như: “Vợ chồng là đồng chí cách mạng”; và những khẩu hiệu tuyên truyền thời bình kiểu như: “Phụ nữ vùng lên”.
Dường như phụ nữ không còn là nửa bình lặng của nhân loại nữa!
Phụ nữ không cần phải “vùng lên” bởi vì phụ nữ dĩ nhiên là người mà nam giới phải bảo vệ. Người ta đã vin vào việc “giải phóng phụ nữ” để khiến người phụ nữ vất vả hơn, hy sinh nhiều hơn, mệt nhọc hơn, và đau khổ hơn. Đó không phải lỗi của cái gọi là “Nho giáo phong kiến” mà chính là lỗi của cái vỏ “giải phóng nữ quyền” trong Cách mạng văn hóa.
Nữ quyền đích thực không phải là những lời tuyên truyền trong Cách mạng văn hóa, cũng không phải là khôi phục lại Nho gia, bởi vì Nho gia đã là quá khứ. Nữ quyền đích thực chính là khôi phục chuẩn mực đạo đức, khôi phục niềm tin vào văn hóa truyền thống, khôi phục những giá trị phổ quát của nhân loại.
Sơ lược về nữ quyền trong lễ giáo và tông thất
Học thuyết Nho gia được kiến lập vào thời kỳ Xuân Thu. Vào 2.500 năm trước, Khổng Tử đã bôn ba kêu gọi khắc chế bản thân và phục hồi lễ nghi. Tuy nhiên, phải đến thời nhà Tống thì bộ phận Lễ của Nho gia mới có được thực tiễn đầy đủ. Lúc đó, các nhà lý học của triều Tống đã khôi phục lễ giáo từ trạng thái bên bờ diệt vong trở nên mạnh mẽ trở lại, không chỉ khiến xã hội quay lại trạng thái đúng đắn kể từ thời kỳ Ngũ đại Thập quốc, mà còn có ảnh hưởng sâu rộng đối với hậu thế. Về sau, tư tưởng lễ giáo của triều Nguyên, Minh, Thanh kế thừa trực tiếp từ các nhà Nho lớn thời Tống. Do vậy cho đến thời cận đại khi xuất hiện trào lưu tư tưởng phản truyền thống, thì lý học thời nhà Tống đã trở thành mục tiêu chung khi họ muốn công kích Nho gia.
Tuy vậy điều đáng chú ý là, lễ giáo mà các nhà lý học thời Tống nhấn mạnh, không chỉ là đối với nữ, mà cũng cả với nam, dạy người ta ai cũng đều làm tốt ở vị trí của người ấy, thuận theo Đạo của Trời và Đức của Đất. Đối với nữ mà nói, thì nên có Đức Khôn (Khôn là chỉ Đất, mẹ). Chẳng hạn thiện như nước, có đức dày mang chở vạn vật, độ lượng bao dung người khác v.v., đều là biểu hiện của Đức Khôn. Vậy mới nói, ấn tượng về một “lễ giáo cứng nhắc” hay cổ nhân cổ hủ kỳ thực là do quan niệm của phái hiện đại trong thời Cách mạng văn hóa gán vào.
Cho dù là lễ giáo cũng vậy, hay là lý học thời Tống vốn khiến lễ giáo thâm nhập vào nhân tâm cũng vậy, đều không giống những gì mà trào lưu tư tưởng của phái hiện đại và phản truyền thống công kích, chuyên bức hại đối với phụ nữ.
Còn nói về chế độ tông thất, mô thức gia đình truyền thống là các thế hệ đồng tông đồng tộc cùng ở với nhau, gia tộc càng lớn thì càng thịnh vượng, gia tộc không thuận thì mới chia nhà. Thế nhưng, trong thể hệ lý luận của các học giả phản truyền thống, họ coi lễ giáo là sự ức chế về tinh thần, và coi tông tộc là cái lồng ức chế về vật chất.
Nếu muốn xem xét kỹ hơn, thì phải bắt đầu từ sự hình thành của chế độ tông tộc. Gia tộc tông tộc bắt đầu hưng thịnh từ thời nhà Tống, kế thừa cho đến thời Nguyên, Minh, Thanh. Chế độ tông tộc lại cũng có quan hệ với lý học thời Tống. Thời kỳ đó, thực tiễn mà các nhà lý học hướng đến chính là “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” của Nho gia, trong đó “tề gia” là một cầu nối trọng yếu liên kết “tu thân” và “trị quốc”. Nói một cách thông tục, chính là “không quét nổi nhà mình thì sao quét nổi thiên hạ”.
Để có thể làm được “tề gia”, ắt phải sinh ra chế độ tông tộc. Do vậy ý nghĩa của chế độ tông tộc tất nhiên cũng trọng đại, mà tác dụng của người phụ nữ trong tông tộc cũng không thể coi nhẹ. Khi một gia đình lấy từ đường, nghĩa trang làm trung tâm, kết thành một tông tộc lớn, thì trên mảnh đất của họ, các thế hệ chung sống nhân nghĩa, đến mấy đời không phân chia, thì người phụ nữ làm người chủ bên trong, có vai trò hết sức quan trọng. Họ có uy quyền cao hơn, nghĩa vụ nhiều hơn và cũng gánh vác trách nhiệm lớn hơn. Điều này cũng giống như hai mặt của một đồng tiền, không thể chỉ xem một mặt, mà không để ý gì đến mặt kia, chỉ luận trách nhiệm và nghĩa vụ, mà không xem xét đến sự trôn trọng và kính mến mà người phụ nữ được nhận từ trong dòng tộc.
Ngoài Nho giáo ra, tư tưởng Đạo gia cũng giảng rằng: “Yếu thắng mạnh, nhu thắng cương”, “Lùi một bước biển rộng trời cao”, “Thiện như nước, nước thiện với vạn vật mà không tranh”, do vậy sự khiêm tốn nhẫn nhịn của người phụ nữ thời xưa, kỳ thực là một đức hạnh và cao quý, chứ không phải là chịu bức hại như người hiện đại nhận định. Hơn nữa những đức tin đầy trí huệ này, không chỉ dành cho phụ nữ, mà cũng có thể áp dụng cho nam giới. Bất cứ người nào có thể làm được như vậy, thì hẳn là phải ở một cảnh giới tinh thần rất cao.
Theo Trithucvn