Hải Phòng: Tháng 9 đôi mươi “lộc rươi” đã đến và những điều cần biết về món ăn đặc sản theo mùa này
“Tháng 9 đôi mươi, tháng 10 mùng năm” là câu ví von của các cụ ngày xưa, để nhắc về con rươi – một “quái sản” quý của vùng bãi bồi ven con sông Văn Úc, thành phố Hải Phòng.
Rươi là một đặc sản theo mùa chỉ có ở miền Bắc. Những năm gần đây rươi vừa vớt xong thường được cấp đông chuyển đi các tỉnh thành khác trong cả nước để bán với giá rất đắt đỏ.
Rươi thuộc bộ giun đốt, nhiều lông tơ, gọi là “quái sản” cũng không lấy gì làm lạ bởi rươi là con vật tự nhiên, chỉ xuất hiện ở vùng nước lợ gần cửa sông nơi có nước thủy triều lên xuống, mỗi năm chỉ xuất hiện ngắn ngủi có vài ngày. Theo kinh nghiệm truyền lại, rươi xuất hiện quanh năm nhưng mùa “bùng” lên nhiều nhất và cho giá trị dinh dưỡng cao là vào 2 con nước chính, khoảng 20-9 và mùng 5-10 (âm lịch).
Theo đó, rươi ở mùa này thường đều con, đỏ hồng, bụ sữa và ăn có vị béo ngậy. Chính vì có hàm lượng dinh dưỡng cao nên rươi đã được nhiều người sành về ẩm thực yêu thích và chọn làm thực phẩm để chế biến ra nhiều món ăn thơm ngon, bổ dưỡng không thể thiếu trong mỗi bữa ăn của gia đình người Việt.
Thời gian được dân gian đúc kết chính xác là “tháng chín đôi mươi, tháng mười mùng năm”. Có nghĩa là rươi chỉ nổi nhiều, tập trung nhất vào ngày 20 tháng chín và mùng 5 tháng mười âm lịch mỗi năm. Con người ít có khả năng tác động đến quá trình sinh trưởng nên nhiều người ví rươi như “lộc giời”.
Hải Phòng có nhiều vùng rươi lớn cho sản lượng khai thác mỗi năm lên đến hàng trăm tấn. Hầu hết các xã có vùng nước lợ ven các sông Văn Úc, Thái Bình, sông Luộc, sông Hóa thuộc các huyện An Lão, Kiến Thụy, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo đều có rươi.
Rươi bổ đến đâu?
Từ rươi, người ta chế biến ra được khá nhiều món ăn như chả rươi, mắm rươi, rươi nấu riêu, rươi xào củ niễng, kho, hấp…Món nào cũng thơm, ngon miệng và giàu dinh dưỡng.
Theo các chuyên gia dinh dưỡng, trong 100g rươi có 81.9g nước, 12.4g protid, 4.4g lipid, cung cấp cho cơ thể được 92 calo, không hề thua kém giá trị dinh dưỡng khi đem so với thịt bê non (trong 100g thịt bê nạc có 78.2g nước, 20g protid, 0.5g lipid, cung cấp được 87calo). Ngoài ra, rươi còn chứa nhiều loại muối khoáng quan trọng với sức khỏe như canxi, photpho, sắt, kẽm…
Tại sao ăn rươi kèm theo vỏ quýt?
Theo Đông y, vỏ quýt (hay còn gọi là trần bì) có rất nhiều tác dụng, trong đó có tác dụng phòng và chữa những bệnh liên quan đến đường tiêu hóa. Vỏ quýt tươi có 3.8% tinh dầu, 9% hectozan, ngoài ra còn có các chất khác như carotene, vitamin B1, B2. Tinh dầu vỏ quýt có vị the và mùi thơm rất dễ chịu.
Rươi là loài sống ở đáy nước cùng bùn cát, do đó không tránh khỏi việc chúng bị nhiễm những chất độc từ chính môi trường mà chúng sinh sống, nhất là ở khu vực nước bị ô nhiễm nhiều. Đặc biệt, khi chết, rươi rất dễ bị phân hủy, sinh ra nhiều độc tố. Do đó ăn phải rươi chết sẽ bị ngộ độc, sình bụng, khó tiêu, tiêu chảy cấp, nặng nề hơn là nguy hiểm tới tính mạng.
Có thể dân gian cũng đã nhận biết được vấn đề này, bởi vậy nên khi chế biến các món ăn từ rươi, từ chả cho đến mắm rươi, thường nêm thêm vỏ quýt.
Tại sao ăn rươi hay bị ngộ độc, dị ứng?
Rươi giàu dinh dưỡng, rất nhiều đạm, nhiều người ăn rươi bị ngộ độc là do chất đạm có trong rươi ngấm vào ruột, vào máu, gây phản ứng cho cơ thể bởi đạm trong rươi khác với đạm trong các thực phẩm như thịt bò, heo…
Không chỉ rươi, mà các loài nhuyễn thể nói chung sống ở môi trường đáy nước, bùn cát, thường có nhược điểm là dễ nhiễm chất độc từ môi trường sống. Nhuyễn thể cũng là vật trung gian truyền nhiều loại vi khuẩn gây bệnh như Salmonella, E.coli, gây tiêu chảy, đường ruột nếu chế biến không cẩn thận, đúng cách. Ngoài ra, khi sơ chế, cần phải loại bỏ những con rươi đã chết vì rươi chết dễ sinh độc tố, gây tiêu chảy cấp, đau đầu, choáng váng.
Việc cấp đông rươi để vận chuyển đi nhiều nơi cũng cần phải đảm bảo vệ sinh. Rươi được cấp đông phải là rươi còn sống. Trước khi chế biến, cần chuyển từ ngăn đá xuống ngăn mát để rã đông dần, không dùng lò vi sóng hay nước lạnh hoặc nhiệt độ phòng để rã đông rươi.
Ngoài ra, việc bảo quản rươi quá lâu trong ngăn đá cũng là một trong những nguyên nhân gây mất an toàn vệ sinh thực phẩm.
Sau khi ăn rươi, nếu thấy bị nổi ban, đau đầu, nôn ói, tiêu chảy… bạn cần phải ngay lập tức tới bệnh viện. Không nên phỏng đoán rồi tự chữa theo kinh nghiệm tại nhà.
Ai không được ăn rươi?
Đạm trong rươi rất dễ gây dị ứng, bởi vậy những người có cơ địa dị ứng hoặc đã từng dị ứng khi ăn hải sản không nên ăn rươi.
Cạnh đó, những người đã từng một lần bị ngộ độc rươi, không bao giờ nên ăn tiếp món này lần hai. Vì ngộ độc lần sau bao giờ cũng nặng và nguy hiểm hơn lần trước, rất nguy hiểm.
Cũng vì rươi giàu đạm, nên bà bầu không nên đụng tới món này vì có thể gây khó tiêu, sình bụng, không có lợi cho tiêu hóa. Ảnh hưởng không tốt đến em bé.
Với trẻ em, hệ tiêu hóa còn non nớt, chưa hoàn chỉnh, cũng tránh cho bé ăn một lúc nhiều rươi. Nếu muốn, chỉ nên cho bé ăn chút một để thử phản ứng của cơ thể bé với món ăn vừa ngon vừa nguy hiểm này.
Thế nào là rươi ngon?
Rươi còn tươi ngon là những con lớn, thân mập mạp, màu đỏ, còn ngọ nguậy. Kinh nghiệm mua rươi tươi, mới là chỉ lấy những con còn khỏe ở phía trên, vì đa số rươi phía dưới thường bị đè vỡ bụng, có mùi tanh.
Rươi sắp chết là những con nhỏ, gầy, có màu xanh, bò yếu hoặc lâu lâu mới ngọ nguậy.
Chú ý, khi rửa rươi chỉ cần thả rươi vào chậu nước, dùng tay đẩy nhẹ để rươi khỏi bị vỡ bụng. Rửa chừng ba lần cho sạch bớt bùn, rác.
Rươi sạch vớt ra để ráo nước, chuẩn bị “làm lông” để khi ăn không bị ngứa rát cổ. Dùng nước nóng chừng 40 độ C, thả rươi vào, dùng đũa khuấy nhẹ. Khi thấy bùn, chân và lông rươi rụng, nổi lên thì vớt rươi ra và chế biến món ăn.
Bạch Vân (t/h)