Gia cát lượng, nhân tài nhưng mệnh trời khó cãi
Gia Cát Lượng dù có Nhật Nguyệt cùng hợp chiếu mệnh nên cuộc đời từ trung vận thì tỏa sáng rực rỡ, tung hoành ngang dọc, tên tuổi lẫy lừng. Tuy nhiên vẫn không tránh khỏi định mệnh cho người mệnh vô chính diệu là: Giàu thì chết sớm mà nghèo thì thọ hơn.
Theo truyện, năm 54 tuổi, Gia Cát Lượng biết mình sắp chết trong khi sự nghiệp vẫn dở dang, ấu chúa vẫn còn nhỏ tuổi chưa cáng đáng được sự nghiệp. Ông quyết định làm phép cầm sao giữ mạng để chống lại mệnh trời hòng sống thêm 1 giáp nữa. Trong khi ông lập đàn thất tinh cần phải 7 ngày yên tĩnh không ai quấy rầy. Nhưng đến ngày thứ 6, vì việc quân khẩn cấp, một tướng đã xộc vào nơi ông đang làm phép. Bởi thế việc cầm sao thất bại.
Tuy nhiên dưới góc nhìn của Tử vi học, cái căn bản nhất đối với người mệnh vô chính diệu là không thể thọ được. Các sách Tử vi lưu truyền từ xưa đều có câu “mệnh vô chính diệu phi yểu tắc bần”. Gia Cát Lượng dù có Nhật Nguyệt cùng hợp chiếu mệnh nên cuộc đời từ trung vận thì tỏa sáng rực rỡ, tung hoành ngang dọc, tên tuổi lẫy lừng. Tuy nhiên vẫn không tránh khỏi định mệnh cho người mệnh vô chính diệu là: Giàu thì chết sớm mà nghèo thì thọ hơn.
Tác giả Nguyễn Phúc Vĩnh Tùng viết: “Người ta cũng cho rằng, Gia Cát Lượng chết sớm là vì sát nghiệp của ông quá nặng. Ông đã dùng hỏa công đốt chết 10 vạn quân đằng giáp của Mạnh Hoạch trong cốc Hồ Lô. Rồi lại dùng hỏa công đốt chết 18 vạn quân của Tào Tháo trên sông Xích Bích. Nhưng nếu chúng ta xét điều này dưới cái nhìn của khoa Tử Vi thì dù sát nghiệp của ông nặng hay nhẹ thì tuổi thọ của ông ta cũng sẽ được bao nhiêu với cái số mệnh Vô chính diệu?”.
Ở một sách về Tử vi khác là cuốn Tử vi thực hành thì chỉ ra rằng năm 54 tuổi, Gia Cát Lượng gặp đại hạn ngộ Thái Tuế và một loạt sao xấu cho nên không thể qua được mà phải chết. Cuốn sách viết: “Số Gia Cát có Tả hữu đồng cung Thái dương ở mão, Thái âm ở Hợi gọi là Nhật Nguyệt tinh minh cách, nên số cực phú quý, tài năng lỗi lạc. Năm 54 tuổi, đại hạn ngộ Thái Tuế, Thiên Thương, Hóa kỵ, Đại, tiểu hao, Kình Đà nên chết”.
Gia Cát Lượng là người mệnh Mộc. Có sao mệnh chủ là Văn Các, đây là sao nói về khả năng sư phạm tài ba, cộng với sao điếu khách ở cung mệnh, có thể khẳng định ông là người có tài ăn nói, tài về diễn thuyết, tuy nhiên cung của ông là Kim, khắc với mệnh là Mộc nên không thể thọ lâu được. Chính vì Mộc với Hỏa và Thủy nên Gia Cát Lượng là người sử dụng hỏa công rất giỏi.
Tại cung quan của Gia Cát Lượng có sao Thái Âm miếu địa, lại có Thiên Cơ vượng địa xung chiếu cộng với các sao Quốc ấn thiên mã, điều này khẳng định Gia Cát Lượng là người có công danh cao và sớm thành danh. Dưới thời nhà Thục (221- 263), Gia Cát Lượng giữ chức quân sư, nhưng thực chất là thừa tướng, chỉ sau vua, nắm mọi quyền hành của nhà Thục Hán. Gia Cát Lượng còn là người có tài dùng binh, vì xung chiếu với cung quan lộc, ông có sao Quốc ấn, Tướng Quân, đấy là những sao thể hiện quyết đoán của những vị tướng.
Ở cung Nô Bộc của ông có sao Văn Xương, Thiên Hỷ, điều này cho thấy dưới quyền của Gia Cát Lượng có nhiều tướng lĩnh tài ba phò trợ cho ông gây dựng nghiệp lớn. Tuy nhiên, cung ở cung Nô Bộc lại có những sao xấu như Thiên Hình, Hóa Kỵ và Tuần nên ông cũng bị kẻ dưới trở cờ làm phản không tuân lệnh (với như Mã Tốc, Ngụy Diên).
Khổng Minh cực kỳ giỏi về thiên văn và các tướng số cũng như phong thủy, nên trong những trận đánh cụ thể, ông đã bài binh bố trận chặt chẽ để giành những thắng lợi huy hoàng (ví dụ trận Xích Bích, Tân Dã, Bái Vọng…). Khi đó, theo Lưu Bị buổi ban đầu, đất và quân không có nhiều, Gia Cát Lượng đã biết xoay chuyển tình thế, vào đất Tây Thục. Dựa vào vùng hiểm trở của đất ấy tạo ra thế chân vạc của thời Tam Quốc. Tuy nhiên, trong thuật dùng binh có những trận đánh vì đại cuộc, Gia Cát Lượng đã tiêu diệt rất nhiều sinh linh. Chính vì vậy mà tuổi thọ của Gia Cát Lượng không cao được. Là người hiểu thời thế, ông biết là vận mệnh của nhà Hán đã suy nhưng vẫn một lòng phò tá Lưu Bị dựng đại nghiệp, mặc dù biết thiên thời không đứng về phía mình.
Trong cuộc đời chinh chiến 27 năm, Gia Cát Lượng đã dùng tài trí của mình xoay đổi càn khôn, chuyển bại thành thắng, nhưng đối với vận mệnh của bản thân thì thường không xoay đổi được.
Trước khi mất, khi xem Thiên tướng, ông cũng biết được, vận mình đã hết nhưng vì muốn sống thêm 12 năm (1 giáp) nữa để phò tự nhà Hán thống nhất thiên hạ, nên Gia Cát Lượng đã đăng đàn, xin tuổi thọ, nhưng đúng vào thời khắc cuối cùng thì ngọn nến bản mệnh bị tắt do Ngụy Diên chạy vào trướng bị gió thổi vào, vì vậy mà ông không thể sống được nữa.
Tương truyền đây là lá số của Khổng Minh Gia Cát Lượng:
Còn đây là bài luận giải của cụ Thiên Lương:
Ở bài trước, việc chấm phá vài nét cơ bản trong lá số Tào Tháo như một ví dụ làm rõ hơn mối quan hệ tương hỗ giữa các yêu tố “cung” và “sao” trong môn Tử vi. Hai yếu tố này được ví như hai phần “thế” và “lực” khi lượng định, xét đoán từng cung, từng đại vận, từng nội dung của lá số. Tiếp theo, bàn về chữ “thời” và sự đắc thời hay lỡ thời, lá số của Khổng Minh (181 – 234 sau Công Nguyên) lại cho chúng ta một góc nhìn khác, để biết chữ “thời” quan trọng thế nào trong cuộc đời và sự nghiệp mỗi con người. Chả thế mà có câu: “Lạc nước hai xe đành bỏ phí, gặp thời một tốt cũng thành công.” Đến như quân sư Khổng Minh – một kỳ nhân có tài “hô phong hoán vũ, liệu việc như thần”, được người đời sau xếp đứng đầu trong “tam tuyệt” thời Tam Quốc, trên cả hai người là Tào Tháo và Quan Vũ, cũng không thể vượt qua được chữ “thời” – như một cửa ải mang tính định mệnh này.
“Mệnh tốt không bằng Thân tốt, Thân tốt không bằng Vận tốt”
Đây là câu phú mà ít ai đã quan tâm đến các môn Lý học, nhất là Tử vi lại không thuộc nằm lòng. Thật ra, không thể hạ thấp giá trị và tầm quan trọng của cung Mệnh, cung an Thân, nhưng yếu tố thời vận, tức là chữ “thời” trong lá số nhiều khi có ý nghĩa quyết định thành bại của một đời người, nhất là về hậu vận. Có những người không may có cung Mệnh, Thân bất lợi, nhưng vào tuổi trưởng thành gặp được vận tốt, thoả chí phát huy được năng lực của mình trong một bối cảnh thuận lợi, gọi là cách: “Khô mộc phùng xuân” (cây khô gặp được mùa xuân), với một đại vận 10 năm đắc cách cũng đã thoả nguyện lắm rồi. Trường hợp này ví như hành trình cuộc đời trên một chiếc xe yếu, công suất thấp nhưng được đi trên đường cao tốc, lại gặp mưa thuận gió hoà nên vẫn bình ổn đi đến đích. Ngược lại, Mệnh – Thân có tốt mà vận quá xấu, ví như chiếc xe to đẹp, mạnh mẽ nhưng phải đi trên con đường núi hiểm trở, nhiều mưa to bão lớn nên luôn gặp trở lực, đời nhiều thăng trầm, thành quả không có là bao; khi ấy ý chí và nỗ lực bản thân đóng vai trò quyết định. Tệ nhất là khi Mệnh, Thân đã xấu mà vận cũng xấu, khi ấy tương lại mịt mờ, suốt đời nghèo khó, gian nan vất vả, khổ nạn liên miên, sức người dù có cố làm cũng chỉ cải thiện được phần nào. Vấn đề của nhiều người là: Nếu có vận tốt, liệu có biết và tận dụng được các vận hội đắc cách ấy trong cuộc đời mình, hay là để lỡ thời rồi cuối đời phải nuối tiếc, ân hận!
Vậy thế nào là một “vận” tốt? Trong Tử Vi phân ra: Đại vận (10 năm), niên vận (1 năm), nguyệt vận (1 tháng), nhật vận (1 ngày), thời vận (1 canh giờ). Cách thức lấy từng loại vận trong một lá số và phương pháp xét đoán vấn đề vận hạn khá phức tạp và dài dòng nên xin hẹn quý vị ở một bài chi tiết khác riêng cho vấn đề này. Ở đây xin khái lược về đoán định Đại vận; các “vận” khác về cách thức xem xét cũng không khác nhau là mấy, nhưng theo nguyên tắc: “Dĩ trường chế đoản” – tức là các “vận” dài quyết định các “vận” ngắn. Đại vận tốt thì tiểu có tiểu vận có xấu cũng không quá đáng ngại; còn tiểu vận nếu rực rỡ nhưng trong một Đại vận đắc cách, như thế mới là thật sự thuận lợi và đắc thời. Khi xem xét một đại vận, cần đồng thời quan tâm đến cả 3 yếu tố:
Thiên thời: Xét cung cần xem xét trong tam hợp cung nào? Rồi xét tam hợp cung ấy so với tam hợp tuổi theo phép sinh – khắc để đưa ra nhận định
Địa lợi: Xét âm – dương, ngũ hành của cung cần xem xét so với bản mệnh của mình: Tốt nhất là được sinh nhập, nếu bình hoà thì tạm ổn, kém nhất là mệnh bị khắc nhập hay bị sinh xuất. Khi ấy thành quả (nếu có) thường không trọn vẹn, được việc này dễ hỏng việc khác, có khi sa sút, đổ vỡ hay phá sản.
Nhân hoà: Xét tương tác các bộ sao của cung xem “vận” có hợp với các sao ở cung Mệnh, nhất là chính tinh hay không? Chú ý các sao Tứ Hoá, lục sát tin, nhất là các sao hợp hành với bản mệnh. Khi ấy, vai trò của các sao hợp nhau thành bộ đóng vai trò quyết định.
Thông thường, khi quyết đoán một vận tốt cần chí ít 2 trong 3 yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hoà” kể trên. Nếu may được cả 3 sẽ là vận tối hảo, nhưng trường hợp này rất hiếm. Còn lỡ khi gặp vận mất cả 3 yếu tố trên, nếu khinh xuất mà vọng động thì sẽ cầm chắc thất bại. Khi ấy, chỉ nên ẩn nhẫn chờ thời, “dĩ tĩnh chế động”, lấy tiêu chí bình ổn làm đầu để chờ cho qua vận xấu, rồi mới khởi sự làm ăn, đầu tư lớn hay các quyết định quan trọng về sự nghiệp, công danh.
Theo tuvisomenh.com