Bí mật ẩn giấu đằng sau 7 bức họa nổi tiếng thế giới
Tác phẩm của các nghệ sĩ nổi tiếng không những đẹp mà còn phản ánh suy nghĩ và đặc điểm của từng nghệ sĩ. Như Michelangelo và Da Vinci không chỉ là những danh họa nổi tiếng mà còn là bậc thầy về câu chuyện ngụ ngôn hàm chứa bí mật âm thanh và hình ảnh.
Số 1: Nàng “Mono Lisa” của Leonardo da Vinci.
Đến nay, sau 500 năm kể từ ngày ra đời, người ta đã khám phá ra 8 bí ẩn trong bức họa. Tuy nhiên, nhiều người vẫn chưa hiểu hết được dụng ý của Da Vinci.
“Nếu bạn đứng trước một hình ảnh to lớn của Mona Lisa, bạn sẽ hiểu tức thì vì sao nàng lại nổi tiếng như vậy. Đó là thứ mà bạn phải nhìn tận mắt”, kỹ sư người Pháp Pascal Cotte nhận định.
Mời độc giả Ngaynay.vn khám phá 8 bí ẩn được xem là lớn nhất trong họa phẩm “Mona Lisa” của Leonardo da Vinci:
- Mật mã ẩn trong đôi mắt
Theo phát hiện mới nhất của các nhà nghiên cứu người Italy, trong mắt nàng Mona Lisa có chứa nhiều con số và chữ cái nhỏ xíu.
“Ở mắt phải của Mona Lisa có ký tự LV, rất có thể đó là tên viết tắt của Leonardo da Vinci. Còn mắt trái cũng có ký tự nhưng chưa xác định được đó là chữ CE hay B. Ở vòm mắt có số 72, hoặc L và số 2. Bức tranh này đã gần 500 năm tuổi rồi nên không còn sắc nét nữa” – ông Silvano Vinceti, Chủ tịch Ủy ban Di sản văn hóa quốc gia Italy cho biết.
- Nụ cười bí ẩn
Theo các nhà nghiên cứu, Leonardo Da Vinci đã sử dụng kỹ thuật ông tự học “Sfumato” để pha trộn các chất màu sơn, đặc biệt là xung quanh các góc của mắt và miệng nàng Mona Lisa.
Kỹ thuật này được cho là đã tạo ra một ảo giác về “nụ cười bí ẩn” cho nàng Mona Lisa.
Theo đó, khi người xem chú ý vào đôi mắt nàng, họ vẫn có thể thấy nàng đang cười qua trường mắt. Tuy nhiên, chỉ một khoảnh khắc nhìn xuống làn môi, nụ cười… dường như tan biến.
- Cảm xúc trên gương mặt Mona Lisa
Năm 2005, để đánh giá trạng thái cảm xúc của khuôn mặt nàng Mona Lisa, các nhà khoa học thuộc trường Đại học Amsterdam (Hà Lan) phối hợp cùng các học giả trường Đại học Illinois (Mỹ) đã tính toán gương mặt Mona Lisa trên góc độ khoa học hơn.
Theo đó, gương mặt nàng hiện lên 83% hạnh phúc, 9% chán ghét, 6% sợ hãi, tức giận 2%, ít hơn 1% trung tính và 0% ngạc nhiên.
- Tỉ lệ vàng trên khuôn mặt Mona Lisa
Trong toán học và nghệ thuật, hai đại lượng được gọi là có “tỷ lệ vàng” nếu tỷ số giữa tổng của các đại lượng đó với đại lượng lớn hơn bằng tỷ số giữa đại lượng lớn hơn với đại lượng nhỏ hơn.
Từ bức tranh, ta có thể thấy khuôn mặt nàng Mona Lisa nằm gọn trong một hình chữ nhật vàng và cấu trúc phần còn lại của bức tranh cũng cấu trúc theo một vòng xoắn ốc vàng.
- Mona Lisa có lông mày và lông mi
Năm 2007, theo kết quả cuộc nghiên cứu mới nhất của kỹ sư Pascal Cotte người Pháp, bức họa Mona Lisa không phải là không có lông mày và lông mi như nhiều người vốn nghĩ.
Sau khi scan bức tranh bằng máy ảnh Multi-spectral 240-megapixel do ông tự thiết kế, trong đó sử dụng 13 dải sóng từ tia tử ngoại cho tới hồng ngoại, ông phát hiện đôi mắt của Mona Lisa có nét khác.
Bức ảnh cận cảnh về đôi mắt trái của Mona Lisa làm lộ ra một nét bút lông trên vùng lông mày của nàng. Sau khi phát hiện điều này, người ta vẫn chưa thể tìm ra dụng ý mà Da Vinci muốn “nói” khi ẩn dấu nét vẽ về bộ lông mày và lông mi của nàng.
- Mona Lisa là người đang mang thai
Chuyên viên Bruno Mottin, thuộc Trung tâm nghiên cứu và phục chế các bảo tàng của Pháp (C2RMF), cho biết trang phục của Mona Lisa mang rất nhiều điểm nghi vấn.
Với phương pháp chụp phản xạ hồng ngoại, bí mật này được vén lên một cách không ngờ: đó là kiểu áo để lộ đôi vai trần. Và có những mảnh voan rất mỏng phủ bên ngoài chiếc áo này, phủ nhẹ lên bờ vai trái và luôn cả phần lưng ghế.
Đến đây thì mọi chuyện khá rõ ràng: kiểu trang phục này rất thịnh hành vào thời Phục hưng – một kiểu áo cánh dành cho trẻ em và cả phụ nữ đang mang thai hoặc vừa mới sinh con.
Bác sĩ người Anh Kenneth Kill cũng nhận định, trong bức tranh của danh họa thời Phục hưng đã truyền tải trạng thái mãn nguyện của người phụ nữ đang mang thai.
- Bí ẩn trong đôi tay Mona Lisa
Một trong những câu hỏi hóc búa khác nữa trong họa phẩm này là vị trí của cánh tay phải, nằm ngang dưới bụng nàng. Đây là lần đầu tiên có một họa sĩ đặt cánh tay và cổ tay của người mẫu ở vị trí như vậy.
Cotte phát hiện thấy màu vẽ ở ngay dưới cổ tay phải hoàn toàn khớp với màu lớp vải phủ đầu gối nàng. Vì vậy điều này hoàn toàn có nghĩa: cánh tay và cổ tay nàng đỡ một tấm chăn.
“Cổ của cánh tay phải ở ngay trên bụng. Nhưng nếu bạn nhìn kỹ trong ánh sáng hồng ngoại, bạn sẽ hiểu rằng nàng đã đỡ một tấm chăn phủ bằng cổ tay mình”, Cotte nói.
Mặc dù phát hiện ra điều này, nhưng kỹ sư người Pháp vẫn chưa hiểu thông điệp mà Da Vinci muốn nói là gì.
- Hình ảnh động vật xuất hiện phía sau nàng Mona Lisa
Theo các chuyên gia, nếu nối hoàn chỉnh những nét vẽ trong khung cảnh phía sau nàng Mona Lisa và xoay 1 góc thích hợp, chúng ta có thể thấy hình ảnh đầu con trâu, đầu sư tử và khỉ.
Nhiều người còn tin rằng còn có một con cá sấu hoặc một con rắn ẩn trên tay trái của nàng Mona Lisa.
Cho đến nay, sự mơ hồ trong nét thể hiện của người mẫu, sự lạ thường của thành phần nửa khuôn mặt chính là yếu tố góp phần vào sức mê hoặc của bức tranh suốt hàng trăm năm qua.
Số 2: Bức tranh “Primavera” của Sandro Botticelli.
Bức tranh Primavera được hoàn thành năm 1482 bởi họa sĩ người Italy Sandro Botticelli. Ông là họa sĩ tài năng với lối vẽ độc đáo, thường thể hiện nhiều tư tưởng tiến bộ trong các chủ đề thần thoại, gắn các nhân vật truyền thuyết với đời thực. Thời đầu Phục Hưng, Lorenzo de Medici – người đứng đầu gia tộc Medici, một gia đình giàu có và quyền lực bậc nhất trong lịch sử nhân loại, đã đặt Botticelli vẽ bức Primavera để làm quà cho Giulio di Giuliano de Medici – người sau này trở thành Giáo hoàng.
Primavera có kích thước 202 x 314 cm bằng chất liệu tempra trên bảng. Bức tranh là một báu vật của Italy, hiện trưng bày tại bảo tàng Uffizi, Florence. Tranh được lấy cảm hứng từ bài thơ Fasti của Ovid về mùa xuân và các lễ hội.
Một điều đáng kinh ngạc là họa sĩ Botticelli đã vẽ tới 500 loại cây cỏ, hoa khác nhau trong bức tranh chỉ có diện tích 202 x 314 cm. Nền tranh là khu vườn cam, tương truyền cam là loài cây biểu tượng cho gia tộc Medici. Trong các loài thực vật, có tới 190 loài hoa và 130 hoa có tên được vẽ tỉ mỉ, chi tiết chính xác như một nhà giải phẫu sinh học.
Với các nhân vật, cỏ cây hoa lá, Primavera là một sự thể hiện sinh động, đầy màu sắc nhất về sự sống, tình yêu, hôn nhân và niềm hạnh phúc đang đến với thế giới khi vào xuân.
Số 3: Bức tranh “Hôn lễ của Arnolfini” của danh họa Jan Van Eyck.
Năm 1434, Jan Van Eyck đã hoàn thành tác phẩm “Hôn lễ của Arnolfini” (The Arnolfini Wedding), một trong những tranh sơn dầu thành công sớm nhất.
Kết cấu bức họa là theo cách đối xứng cân bằng, dùng phương pháp thấu thị thuần thục và chuẩn xác để gần như làm biến mất tấm gương lồi hình tròn ẩn đằng sau bối cảnh. Bên trong tấm gương, ngoại trừ bối cảnh hai nhân vật chính là cô dâu, chú rể ra thì còn có thể nhìn thấy những sự vật mà không thể thấy được trên bức họa, đặc biệt là 2 người làm chứng hôn lễ trong phòng (phân biệt mặc y phục màu lam và màu cam). Phía trên tấm gương, Jan Van Eyck đã tự tay ký tên “Jan Van Eyck đang ở đây”. Điều này khiến bức họa không chỉ là một bức họa, mà còn là chứng kiến và ghi chép cho buổi hôn lễ thần thánh.
Trong bức họa, rất nhiều chi tiết đều ám chỉ một loại hàm nghĩa nào đó, mà một số là có quan hệ với tín ngưỡng và tập tục đương thời của địa phương. Ví dụ chiếc váy của cô dâu có ý tụ lại trước bụng, tạo thành giả tượng như có bầu; nghe nói đây là cầu may mắn, với hy vọng “sớm sinh quý tử”.
Cây nến trên chiếc đèn chùm đại biểu Thượng Đế đang có mặt để chứng kiến hỗn lễ; tấm gương đại biểu sự thuần khiết, đồng thời ẩn dụ về con mắt minh triết của Thần, hết thảy sự vật đều trong tầm mắt, không gì thoát khỏi; chú chó nhỏ đại biểu sự trung thành.
Quả trái cây bên bệ cửa sổ có hai hàm nghĩa, một là chúc mừng hai người sớm thai nghén hậu duệ, và hai là đại biểu “trái cấm”, để cảnh tỉnh đôi trai gái không được phóng túng sa ngã. Đôi dép trên sàn nhà ở góc bức tranh đại biểu cho “có đôi có cặp”, đồng thời ám chỉ đôi trái gái vẫn chưa xỏ dép, bàn chân vẫn đặt nơi đất thánh. Bức tượng gỗ ở đầu giường là Thánh Margaret, vị Thánh bảo hộ phụ nữ, với ý nghĩa bảo đảm sinh đẻ bình an.
Số 4: Bức tranh “Nhạc công Guitar già” của Picasso.
Trong “thời kì xanh” 1901-1904, Picasso phải đối mặt với một cuộc sống chật vật với chi phí eo hẹp cho các tác phẩm nghệ thuật của mình. Ông buộc phải dùng một số thủ thuật, thay vì vẽ lên vải chuyên dụng dành cho hoạ sĩ – canvas, Picasso đã phải dùng đỡ những tấm bìa cứng để vẽ. Chính vì thế mà khi có tiền mua được vải chuyên dụng, chúng thường được tái sử dụng nhiều lần. Bức tranh “Nhạc công guitar già” là một ví dụ.
Nếu bạn có may mắn được tận mắt xem bức ảnh “Nhạc công guitar già”, bạn sẽ phát hiện một gương mặt mờ mờ ở phần cổ của người nhạc công. Tuy nhiên, phải chụp X quang thì mới có thể thấy rõ toàn bộ bức tranh “ẩn mình” này. Đó là hình ảnh một người phụ nữ đang bế con, kề bên có một con bò và con cừu.
Số 5: “Bữa tối cuối cùng” của Leonardo da Vinci.
Slavisa Pesci, một chuyên gia công nghệ thông tin đã tạo ra một hiệu ứng hình ảnh tương đối thú vị bằng việc làm mờ bức tranh đi một nửa và chồng hai chiều khác nhau của bức tranh lại với nhau.
Kết quả đã khiến anh hết sức bất ngờ với sự xuất hiện của hai vị Hiệp sĩ Dòng đền ở hai phía đầu bàn và dường như chúa Giesu còn đang ôm một đứa trẻ ở giữa.
Năm 2007, nhạc sĩ kiêm kỹ sư tin học nổi tiếng của Italy lại vừa công bố phát hiện về những nốt nhạc ẩn đằng sau bức “Bữa tiệc cuối cùng” của danh hoạ Leonardo Da Vinci. Phát hiện này đang làm tăng thêm những khả năng về thiên tài thời kì Phục Hưng có thể đã để lại một đoạn nhạc có giai điệu buồn.
Đầu tiên, Pala đã phát hiện thấy một khuông nhạc 5 dòng chạy ngang qua bức hoạ. Thêm vào đó, cách bài trí bánh mì trong bàn ăn, kết hợp với tư thế bàn tay của Giesu và các tông đồ đều là những dấu hiệu tượng trưng cho các nốt nhạc.
Theo Pala, phát hiện này cũng hoàn toàn phù hợp với những biểu tượng trong đạo Cơ Đốc, giữa bánh mì – biểu thị cho thân thể của Chúa và bàn tay – được dùng để ban phát thức ăn. Tuy nhiên, nếu chỉ có dấu hiệu về những nốt nhạc thì chưa đủ làm nên một giai điệu đúng nghĩa, cho tới khi Pala phát hiện ra điểm mấu chốt: khuông nhạc này phải được đọc từ phải sang trái – theo đúng cách viết của Leonardo.
Kết quả không nằm ngoài dự đoán, khi kết hợp với nhau, các nốt trong khuông nhạc này cho một bản nhạc dài 40 giây với giai điệu buồn bã tựa như một bài hát cầu siêu cho linh hồn người đã khuất.
Sau khi tiến hành nghiên cứu và phân tích, nhà nghiên cứu người Vatican Sabrina Sforza Galitzia đã nhìn ra hình dáng một cửa sổ hình bán nguyệt ngay trung tâm bức họa ẩn chứa thuật toán và chiêm tinh học khó hiểu.
Khi giải mã hình ảnh này, Galitzia phát hiện ra Leonardo da Vinci đã tiên đoán “ngày tận thế” cho nhân loại cách thời điểm ông vẽ bức tranh là 2.511 năm. Thời điểm Da vinci bắt đầu vẽ là năm 1495, thời điểm ông dự đoán “ngày tận thế” là năm 4006.
Galitzia đi đến kết luận: “Ngày tận thế” của loài người và mọi sinh vật trên Trái Đất sẽ bắt đầu từ ngày 21/3/4006 và kéo dài đến ngày 1/11/4006 bằng một trận “đại hồng thủy” khủng khiếp, nhấn chìm loài người và mọi sinh vật sống trên Trái Đất.
Tuy nhiên, theo DaVinci, sau “Cơn đại hồng thủy” sẽ là sự khởi đầu hoàn toàn mới cho nhân loại.
Số 6: “Sự sáng tạo ra Adam” của Michelangelo.
Danh họa Michelangelo đã tạo ra bức tranh để đời của mình – The creation of Adam – trên trần nhà nguyện Sistine, Vatican từ năm 1511 – 1512.
Bức tranh mô tả về một giai thoại trong Sách Sáng thế, khi Chúa thổi hồn và tạo ra Adam – con người đầu tiên trên thế giới.
Năm 1990, Frank Meshberger đã công bố một nghiên cứu, cho rằng hình mẫu Chúa trong bức họa của Michelangelo thể hiện một cách chính xác cấu trúc giải phẫu của não người, với những đường nét đầy đủ về bề mặt trong và ngoài não bộ, gồm thân não, thuỳ trước trán, động mạch thân nền, tuyến yên…
Ngoài ra, còn một ý tưởng khác, đó là miếng vải đỏ xung quanh Chúa là hiện thân của tử cung con người, còn dây xanh chính là dây rốn. Người đưa ra lý thuyết này là một nhóm chuyên gia Ý, và theo họ, điều đó thể hiện việc lý tưởng hóa sự ra đời của một người đàn ông, dựa trên chính hiện thực trong cuộc sống.
Số 7: Giơ ngón tay trước Giáo hoàng của Michelangelo.
Bức tranh trên vòm nhà nguyện Sistine Chapel mô tả nhiều cảnh khác nhau trong “Sách sáng thế” được coi là 1 trong những kiệt tác vĩ đại nhất của Michelangelo. Trong hàng nhiều thế kỉ qua, mọi người từ các tín ngưỡng khác nhau đến thăm Rome và nhà nguyện Sistine Chapel, chỉ để nhìn lên mái vòm và chiêm ngưỡng tác phẩm của ông.
Với phần lớn mọi người đây có thể chỉ là 1 phần tuyệt đẹp trong “Cựu Ước”, tranh tường được sơn lên thạch cao ẩm về sự sáng tạo ra vũ trụ, thuyền Ark của Noah, Adam và Eva. Nhưng đây cũng có thể là tác phẩm nổi tiếng nhất nơi người nào đó lật người khác vào đám lửa.
Trong khoảng thời gian 4 năm để hoàn thành các bức vẽ, Michelangelo có mối quan hệ không mấy tốt đẹp với Đức Giáo hoàng Julius II người có biệt danh “Giáo hoàng gây sợ hãi” bởi tính cách nóng nảy và tham vọng quyền lực.
Bên trên chiếc cánh cửa vào nhà nguyện mà Giáo hoàng vẫn sử dụng, Michelango tạo nên chân dung Giáo hoàng Julius thông qua hình tượng nhà tiên tri Zechariah. Ngay phía sau ông là thiên thần nhỏ với ngón tay co lại mà theo người Ý là cử chỉ tục tĩu và chế nhạo.
TH sưu tầm và biên tập