GS Hoàng Xuân Hãn được đặt tên cho giảng đường tại Pháp
Bảng tiểu sử GS Hoàng Xuân Hãn đặt trước giảng đường.
Ông cũng là người Việt Nam duy nhất được chọn đặt tên bên cạnh những danh nhân Pháp như Christian Beullac, Jacques Boulloche, Albert Caquot, Célia Russo, Bejamin Nadault de Buffon, Jean Kérisel… Hoàng Xuân Hãn, người Việt Nam, là cựu sinh viên của Đại học Polytechnique (Bách khoa), kỹ sư của Trường Pont et Chausssées, nhà toán học và là một học giả. Cuộc đời ông, cuộc đời của một nhà nhân văn lớn được nuôi dưỡng bởi ba nền văn hóa, ông đã hiến dâng nó cho cuộc đấu tranh giành độc lập suốt từ hai nghìn năm nay của dân tộc ông.
Từ 6 tuổi, cùng với việc học chữ trong gia đình, ông bắt đầu tiếp thu một cách vững chắc nền văn hóa Trung Hoa. Năm lên 9, ông học tiếng Pháp ở trường tiểu học ; ở trường trung học Albert Sarraut Hà Nội, ông khám phá tinh thần của Descartes, tư tưởng của thời đại Khai Sáng và các con đường của khoa học.
Ngay khi mới bắt đầu nhập học ở trường Polytechnique, ông đã quan niệm rằng để du nhập khoa học và kỹ thuật phương tây vào tư tưởng Việt Nam, thì điều quan trọng là phải tự trang bị một ngôn ngữ phù hợp. Chính với quan niệm này mà ông bắt đầu soạn thảo cuốn Từ điển thuật ngữ khoa học sẽ được công bố năm 1942.
Vì ở Việt Nam chính quyền thực dân ngăn cản ông tiếp cận với mọi vị trí công việc trong lĩnh vực chuyên môn dành cho một kỹ sư được đào tạo ở Đại học Pont et Chaussées, nên ông đã tham dự kỳ thi Thạc sĩ (agrégation) về toán. Một số người trong số vài nghìn học sinh của ông sau này đã được đảm nhận những trọng trách.
Năm 1936, khi tham gia chiến dịch xóa mù chữ, ông nghĩ ra một phương pháp sử dụng cùng lúc cả ngữ âm hiện đại và truyền thống truyền miệng của đất nước.
Trong những bài báo xuất bản trên Tạp chí Khoa học Sài Gòn (ông giữ mục Toán học của tạp chí này) ông đã kết hợp truyền thống dân gian và tính chặt chẽ tuyệt đối của toán học, những bài báo đó là những hình mẫu về sư phạm. Như vậy, qua thực hành, ông đã làm rạng rỡ những phương tiện tiếng Việt sử dụng trong lĩnh vực khoa học, vì thế mà mở một con đường cho sự “Việt Nam hóa” giáo dục mà ông sẽ vận dụng với tư cách là Bộ trưởng của chính phủ độc lập đầu tiên (năm 1946).
Trong tư cách là sử gia và là nhà ngữ văn học, ông đã phát hiện ra di tích Đò Lèn, chỉ ra tầm quan trọng về mặt văn hóa của các tấm bia và của các gia phả do các dòng họ gìn giữ ; và đặc biệt ông đã khôi phục các tác phẩm văn học viết bằng chữ Nôm. Ông đã thực hiện bản văn có chú giải của tiểu thuyết bằng thơ Truyện Kiều của Nguyễn Du (1765-1820), một công trình uyên bác mẫu mực, được Hiệp hội Aubonne xuất bản sau khi ông mất. Ông đã sáng lập Hiệp hội này năm 1992, cống hiến cho cả hai nền văn hóa Việt Nam và Pháp, mà nhiều người Việt Nam hiện đang sống ở Pháp cùng chia sẻ.
Theo Từ Huy
SGTT