Văn hóa truyền thống phương Đông đều rất coi trọng vấn đề hôn nhân, thệ ước. Khi đã là vợ chồng với nhau, thì chính là đã được Trời, Đất chứng giám, vậy nên, dù nghèo đói hay vinh hiển, cũng không thể bỏ rơi người vợ của mình.
Cổ nhân coi hôn nhân nam nữ là nền tảng của luân lý làm người và phù hợp với Đạo của Trời đất. Bởi vậy, khi kết hôn, vợ chồng phải bái lạy Trời đất, Thần linh, tổ tiên, cha mẹ vừa là để tạ ơn vừa là để chứng giám cho lời thề của họ. Nếu vi phạm lời thề sẽ bị Thần linh trừng phạt.
Trong cuộc sống hôn nhân, yêu cầu người chồng và người vợ phải một lòng một dạ, bất luận là bần cùng hay bệnh tật đều sống cùng nhau, thực hiện lời thề hẹn của mình. Thời cổ đại, người ta coi việc kết hôn là chuyện của cả đời bởi vì họ tin rằng người nào vứt bỏ và phản bội thệ ước sẽ gặp phải báo ứng.
Trong lịch sử cũng có rất nhiều tấm gương điển hình, dù giàu sang, vinh hiển nhưng không từ bỏ người vợ xấu xí, bần hàn của mình.
Không bỏ người vợ thuở bần hàn để làm chồng công chúa
Tống Hoằng, tự là Trọng Tử là người Trường An (nay thuộc Thiểm Tây). Ông là vị quan nổi tiếng vào những năm đầu của triều đại Đông Hán. Sau khi Hán Quang Vũ Đế lên ngôi, Tống Hoằng được phong làm Thái Trung Đại phu, về sau lại làm đến chức Đại Ti Không.
Ông dùng tất cả tiền của bổng lộc mình có để giúp đỡ, nuôi dưỡng người trong dòng họ. Trong nhà ông gần như không có một tài sản, của cải. Ông nổi tiếng là người đức hạnh, thanh liêm.
Lúc ấy, chồng của công chúa Hồ Dương, chị của Quang Vũ Đế mất. Quang Vũ Đế thường mời chị vào cung gặp mặt, nói chuyện về các quân thần để thăm dò xem chị mình muốn tìm một tướng công như thế nào.
Một hôm, lúc hai người đang đàm luận về các vị đại thần, công chúa nói: “Tống Hoằng có tướng mạo và phẩm đức, tài trí đều xuất chúng, đại thần trong triều quả thật không ai sánh bằng”.
Quang Vũ Đế sau khi biết ý tứ của chị gái, liền triệu kiến Tống Hoằng đến, rồi bảo công chúa Hồ Dương ngồi phía sau tấm bình phong nghe hai người họ nói chuyện.
Quang Vũ Đế nói với Tống Hoằng: “Tục ngữ nói: Con người khi sang quý thì đổi bạn, khi giàu có thì đổi vợ. Đây là lẽ thường tình của con người. Khanh có hiểu tâm ý của Trẫm không?”.
Tống Hoằng đáp: “Thần cũng có nghe nói rằng, bạn thuở bần tiện là không thể quên, người vợ tào khang là không thể bỏ”.
Nghe xong lời này của Tống Hoằng, Quang Vũ Đế cũng hiểu được ý tứ của ông. Quang Vũ Đế sau đó nói với chị gái: “Việc này không thành được!”.
Được ban vợ trẻ, cũng không đồng ý bỏ người vợ già
Danh Cung, tự là Kính Đức, là người Thiện Dương, Sóc Châu (nay thuộc Sơn Tây), là một trong những chiến tướng nổi tiếng nhất thời kỳ Tùy Đường. Ông vốn là thuộc hạ của thủ lĩnh Tống Kim Cương. Về sau, Tống Kim Cương bại trận phải bỏ chạy để lại Kính Đức giữ thành.
Sau khi Đường Thái Tông kế vị, ngưỡng mộ tấm lòng trung thành và dũng cảm của Kính Đức nên đã chiêu mời ông. Sau đó, phong cho ông làm ngô quốc công, sau là phong ngạc quốc công. Ông cùng với Trưởng Tôn Vô Kỵ, Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối nắm giữ việc triều chính. Sau khi Kính Đức qua đời, được ban hiệu là “Trung Võ”.
Khi còn sống, Đường Thái Tông Lý Thế Dân vì muốn ban thưởng cho công lao của Kính Đức nên từng hỏi: “Trẫm muốn gả con gái trẫm cho khanh, không biết ý khanh thế nào?”
Kính Đức khấu đầu tạ ơn rồi nói: “Vợ thần mặc dù quê mùa xấu xí, dốt nát, nhưng là người cùng với thần trải qua cuộc sống bần cùng, hoạn nạn nhiều năm. Thần tuy không học vấn, không tài cán, nhưng từng nghe cổ nhân nói: ‘Giàu không đổi vợ’. Thần nguyện noi gương cổ nhân, không thể từ bỏ người vợ già của mình”.
Đường Thái Tông nghe xong lời nói tâm huyết của Kính Đức càng thêm trân trọng ông và cũng từ bỏ ý định.
Giúp người viết thư bỏ vợ bị mất đi công danh
Vào triều đại nhà Thanh ở Ninh Ba có một thư sinh họ Cát, người này mỗi lần trên đường đi học đều đi qua một ngôi chùa và đều vái chào rồi mới đi tiếp. Thần linh trong chùa báo mộng cho ông từ (người trông coi chùa) biết, vị thần linh nói: “Cát trạng nguyên mỗi lần đi qua đây đều vái chào ta, ta có chút không dám, đành phải vội vàng trốn tránh đi, thật sự là dằn vặt không chịu nổi, ngươi nhất định phải giúp ta xây một bức tường che chắn ở trước cửa đi”.
Ông từ nhanh chóng tìm cách tụ hợp mọi người trong thôn lại để bắt đầu xây dựng thì lại mơ thấy thần linh trong chùa nói: “Không cần nữa, Cát thư sinh đã giúp người khác viết thư bỏ vợ, Thượng Đế đã xóa sạch công danh của hắn ta đi rồi”. Hóa ra, có người vì muốn bỏ vợ nên đã trả cho Cát thư sinh một lượng bạc để viết cho ông ta một lá thư bỏ vợ.
Cát thư sinh nghĩ: “Mình không viết, ông ta cũng sẽ tìm người khác viết, vậy cũng không giúp được người vợ kia mà lại làm sứt mẻ tình cảm giữa mình và ông ta, kết hạ oán hận, chi bằng biết thời biết thế lại kiếm được một lượng bạc”.
Cát thư sinh liền hồ đồ viết, đến lúc nghe được ông từ kể lại, mới mồ hôi đầm đìa, hối hận không kịp. Cát thư sinh liền đi tìm người muốn bỏ vợ kia, tận tình khuyên bảo, tận sức cứu vãn hôn nhân của hai người họ. Sau này, Cát thư sinh đỗ cử nhân nhưng không đỗ tiến sĩ, con đường làm quan chỉ đến chức quan giám ti là cao nhất.
TinhHoa tổng hợp