Cổ nhân có câu: “Gia đình tích thiện, tất có của cải dư thừa”, câu này không có điểm nào là sai. Còn nói “Cứu một mạng người hơn xây tòa tháp bảy tầng”, câu này càng nói lên rằng cứu mạng người sẽ tích được đức lớn, từ đó mà được Thiên thượng bảo hộ, người lương thiện đắc phúc báo.
Vào thời nhà Minh, tại Đài Châu, Chiết Giang có một thư sinh hiếu học hiểu biết, họ Ứng, tên Đại Du. Ông là người chính trực, cử chỉ đoan trang nho nhã, chăm chỉ, hiếu học. Cho nên ông luôn thích môi trường thanh tĩnh, vắng vẻ, ưu nhã trên núi, lánh xa những nơi huyên náo, dốc lòng chuyên tâm học tập, nghiên cứu những chỗ học vấn hay.
Sau này Ứng Đại Du nghe tin dưới chân đồi ngoại thành vừa hay có một căn nhà, chủ nhà không dám ở vì ngôi nhà hay bị ma quỷ quấy nhiễu. Trước kia cũng từng cho vài vị khách trọ thuê, và những vị khách ấy đều vì căn nhà bị ma ám, mà lần lượt dọn đi không trở lại.
Ứng Đại Du vốn đã tin có quỷ thần tồn tại, nhưng ông lại khác với người thường. Sau khi nghe những lời đồn này, ông bèn nghĩ: “Những người không làm chuyện trái với lương tâm, nửa đêm ma quỷ gõ cửa cũng không sợ, tâm chính trấn áp bách tà. Một nơi đọc sách thanh tĩnh như vậy, ta quyết không thể bỏ lỡ!”.
Ông chủ động xin ý kiến chủ nhà và vô cùng mừng rỡ dọn vào trong căn nhà mà ai nấy đều tránh xa. Dốc công đọc sách tại một nơi thanh tĩnh như vậy, ông thực sự cảm thấy tinh thần sảng khoái, mọi ưu phiền đều tan biến.
Ngay đêm hôm đó, ông đang say sưa đọc sách dưới ánh đèn, đột nhiên nghe thấy tiếng kêu kỳ quái bên ngoài. Ông vẫn điềm tĩnh như không nghe thấy gì, tập trung đọc sách. Sau này ông không những nghe thấy tiếng ma kêu mà còn thường xuyên nghe thấy lũ quỷ nói chuyện với nhau.
Một hôm, ông vô tình nghe thấy một con quỷ nói: “Thôn phía trước có một người phụ nữ, chồng cô ấy ra ngoài làm ăn, nhiều năm không về, nghe ngóng nhiều nơi mà không tìm được tin tức. Phụ mẫu của cô cho rằng con trai mình không còn hy vọng quay trở về nữa, bèn ép con dâu tái giá. Nhưng người phụ nữ này rất hiền thục, cũng rất có khí tiết. Cô đã quyết định, thà chết cũng không tái giá. Sau này, phụ mẫu bức bách ngày càng căng thẳng, cô cảm thấy không còn đường để đi, liền có ý định thắt cổ tự tử. Nếu cô ta thực sự thắt cổ tự vẫn, ta lập tức có thể tìm cô ta làm người thế thân rồi!”.
Con quỷ kia nói: “Ngươi chỉ còn vài ngày nữa là đến ngày đầu thai rồi, quả thực là chuyện vui đáng chúc mừng”.
Sau khi Ứng Đại Du nghe xong mới biết con quỷ nói đầu tiên chết vì thắt cổ.
Ứng Đại Du vô tình biết được chuyện thôn phía trước có người sắp bị bức treo cổ, đột nhiên động lòng trắc ẩn thương người phụ nữ đó, bèn quyết định nghĩ cách cứu cô. Ông vắt óc suy nghĩ, cuối cùng cũng tìm ra một cách hay. Ông vội vội vàng vàng chạy về nhà, bán đi mấy mẫu ruộng, được 42 lạng bạc, liền lập tức làm giả một bức thư người chồng viết gửi cho người vợ, tìm cách mang bức thư và bốn hai lạng bạc tới nhà người phụ nữ đó.
Người nhà cô ấy nhận được tin và bạc, đương nhiên là vui mừng khôn xiết. Nhưng xem kỹ nội dung bức thư, lại không giống bút tích của chồng nên nửa tin nửa ngờ. Nhưng phụ mẫu của cô cho rằng, thư có thể là nhờ người khác viết hộ, bạc lại càng không thể là giả được, nên đoán là con trai ở bên ngoài bình an vô sự và không nhắc tới việc để con dâu tái giá nữa. Đương nhiên là, người phụ nữ đó cũng không còn ý định treo cổ tự vẫn nữa.
Hai ngày sau, người chồng của cô quả nhiên từ nơi xa trở về. Người nhà mừng vui khôn xiết, từ đó lại đoàn viên hòa hợp như thuở ban đầu. Cả nhà hồ hởi nhắc tới chuyện đó, cũng không thể đoán được bức thư và số bạc đó từ đâu đến, chỉ biết thành tâm cảm ơn người hảo tâm đã âm thầm cứu giúp.
Vài ngày sau, Ứng Đại Du lại nghe thấy hai con quỷ nói chuyện. Con quỷ chết vì treo cổ nói: “Ta vốn đã có thể tìm được kẻ thế thân, chỉ vì bản thân không biết bảo mật, lần trước nói chuyện với ngươi, vô tình tiết lộ chuyện cơ mật, bị tên tú tài trong phòng đang đọc sách nghe thấy, không ngờ hắn lại phá hoại chuyện đại sự của ta! Giờ ta thực sự thấy hối hận!”.
Con quỷ kia nói tiếp: “Nếu đã như vậy, sao ngươi không hãm hại hắn để báo thù?”
Con quỷ chết vì treo cổ nói: “Tên thư sinh này lòng dạ từ bi, đã cứu mệnh người phụ nữ đó, nghe nói đã tích được âm đức lớn, sau này sẽ nhận được phúc báo lớn, phải làm đến chức quan Thượng thư. Ta sao dám hãm hại một người tốt đại phú quý như vậy?”.
Sau này, Ứng Đại Du ứng thi quả nhiên đậu bảng vàng, đến bậc tiến sỹ, sau này lại được Hoàng Đế phong làm Thượng thư Bộ hình. Ứng Đại Du nhớ lại cuộc trò chuyện giữa hai con quỷ ngày trước, càng thêm tin vào nhân quả báo ứng quả thực là chính xác không sai.
Từ đó, ông càng chăm chỉ hành thiện hơn, gặp năm có nạn đói ông thường quyên thóc gạo cứu tế; bạn bè người thân gặp nguy nan, ông thường nhân nhượng giúp đỡ; khi giữ chức Thượng thư Bộ hình, ông chấp pháp nghiêm minh, không ham quyền quý, nhiều lần còn lật lại các vụ án oan. Nếu gặp chuyện không như ý, ông thường tự vấn lương tâm và vui lòng thuận theo. Con cháu ông cũng rất nhiều người thi cử đỗ đạt.
Con người sống trên đời, ai là người không muốn bình an, hạnh phúc, ai là người không hy vọng con cháu hiếu thuận, đỗ đạt. Nhưng muốn có được tất cả những phúc báo thiện quả này, thì không có con đường nào khác, chỉ có thể mau chóng phá trừ những quan niệm sai lầm, trọng đức hành thiện; còn nếu phóng túng làm liều, thì chính là cái gọi là “Họa phúc vô môn, duy nhân tự chiêu” (Họa phúc không ngẫu nhiên tìm đến, chỉ do con người tự chiêu mời.)
Chỉ có sớm gieo mầm trọng đức hành thiện, sau này mới được Thần trên Thiên thượng ban cho phúc báo thiện duyên. Lẽ nào chuyện Ứng Đại Du cứu người tích âm đức, đến sau này ghi danh bảng vàng thăng làm Thượng thư, chẳng phải đã chứng minh rất đầy đủ điều này hay sao? Lấy người hiền đức làm gương, sao chúng ta lại không thành tâm thực hiện điều này ngay từ bây giờ?
Theo Minhhue.net