Chúng ta đều đã nghe qua câu chuyện Sự tích cây nêu ngày Tết kể rằng Bụt đã dạy con người trồng cây nêu để xua đuổi ma quỷ. Nhưng thật tai họa lắm thay, pháp lực của cây nêu đã cạn, quỷ dữ đã trở lại, vậy rốt cuộc điều gì đã xảy ra?
Sự tích cây nêu mà chúng ta đã biết
Ngày xửa ngày xưa, lúc con người vừa mới thoát thai khỏi cuộc sống nguyên thủy, đang bắt đầu mày mò học cách khai khẩn đất đai để làm nông nghiệp, cũng chưa hề biết đến tín ngưỡng Thần linh. Quỷ đã tiếp cận và dụ dỗ rằng chúng sẽ dạy Người cách trồng lúa, bù lại Người phải giao nộp một phần thành phẩm cho chúng. Tuy nhiên về bản chất thì Người phải ăn nhờ ở đậu và làm công bộc trên ruộng đất của Quỷ. Quỷ quen thói ở không mà lại ăn nhiều, lòng tham vô độ, mỗi năm đều tăng số lượng cống phẩm phải nộp lên gấp đôi. Người nào không phục tùng sẽ bị chúng dùng vũ lực bắt phải theo. Vì thế, hằng năm sau vụ gặt, Người chỉ còn trơ những rạ là rạ. Cảnh tượng người chết đói da bọc xương thê thảm diễn ra khắp mọi nơi, trong khi bọn Quỷ bụng to trán hói reo cười đắc ý.
Thần linh thương xót cho cuộc sống của con người dưới sự bóc lột tàn nhẫn của Quỷ, nên đã cho một vị Bụt hạ thế, chỉ dạy Người trồng trọt nhiều loại cây trồng, rau củ… không còn phải phụ thuộc vào Quỷ nữa. Đồng thời Bụt cũng dạy Người cách tu dưỡng đạo đức, tín ngưỡng Thần linh để nhận được sự bảo hộ của thiên thượng. Bụt dạy Người trồng một cây tre có mắc một chiếc áo cà sa trên ngọn, bóng cà sa che bao nhiêu diện tích ở mặt đất thì là đất của Người sở hữu ở đó. Khi Người trồng xong cây tre, Bụt hoá phép làm cho cây tre cao vút đến tận trời, bóng của áo cà sa dần dần che kín khắp cả mặt đất.
Cuối cùng Quỷ không còn nơi dung thân nữa, buộc phải chạy ra biển. Quỷ vô cùng căm hận, nhưng không cách nào xâm phạm vào được vùng đất đã được Thần bảo hộ. Chúng quỳ gối dập đầu van xin Bụt từ bi cho phép chúng một năm được hai ba ngày vào đất liền thăm phần mộ của tổ tiên cha ông, nên Bụt đã đồng ý. Vì thế, hàng năm cứ đến ngày tết Nguyên Ðán là ngày Quỷ vào thăm đất liền, thì người ta theo tục trồng cây nêu để cho Quỷ không dám bén mảng vào chỗ người đang ở.
Hiệp ước với Quỷ
Một thời gian rất lâu sau đó, trải qua nhiều thế hệ, Người đã làm chủ được kỹ thuật nông nghiệp, muốn mở rộng sang đánh bắt hải sản, nhưng khi ấy Quỷ lại đang chiếm cứ vùng biển đông. Không còn cách nào, Người đành phải sai một sứ giả đến hòa giải và lập ra một hiệp ước: Quỷ sẽ cho phép Người được đánh bắt cả trên biển, cam kết không gây bất kỳ tổn hại gì; bù lại, Người phải cống nạp tất cả những nông sản thu hoạch được trên một vùng đất do Quỷ chỉ định, kèm theo một thể lệ “ăn ngọn cho gốc”, nghĩa là sau khi thu hoạch xong, Người phải nộp lại toàn bộ phần ngọn cho quỷ, và được giữ lại phần gốc.
Loài người họp bàn với nhau, ai nấy đều cho rằng thái độ xử sự của Quỷ đã biết điều hơn xưa, chỉ đòi hỏi sản vật trên một vùng đất nhất định, lại còn hứa không làm hại ngư dân đánh cá. Giao kèo nhanh chóng được ký kết xong. Hằng năm Quỷ ở trên biển nhưng vẫn có gạo để ăn, còn Người thì có thể phát triển ngư nghiệp.
Nhiều năm nữa trôi qua, Người càng ngày càng thấy xót số gạo phải cống nạp cho Quỷ, nên bắt đầu bày mưu tính kế. Vụ mùa năm ấy, Người không trồng lúa nữa, mà chuyển sang trồng khoai lang. Đến mùa thu hoạch, Quỷ rất hậm hực nhìn theo từng gánh khoai lang đổ thành từng đống lù lù ở nhà Người, còn nhà mình chỉ toàn dây và lá khoai là những thứ không nhai nổi. Nhưng ngặt nỗi, thể lệ đã quy định, chúng đành cứng họng không bắt bẻ vào đâu được.
Sang mùa khác, Quỷ thay thể lệ mới là “Ăn gốc cho ngọn”. Người lại chuyển sang trồng lúa. Kết quả Quỷ lại phải chịu đựng một năm đói kém. Những hạt lúa vàng theo người về nhà, còn rạ phó mặc cho Quỷ. Quỷ tức lộn ruột nên mùa sau chúng tuyên bố “Ăn cả gốc lẫn ngọn”. Lần này Quỷ nghĩ:
“Chấp chúng nó trồng gì đi nữa, đằng nào cũng không lọt khỏi tay chúng tao”.
Nhưng Quỷ không ngờ chức vô địch “giảo hoạt” ngày xưa của mình, ngày nay đã bị soán mất. Năm ấy loài Người chuyển sang trồng bắp ngô. Trong nhà Người thóc ăn chưa hết thì từng gánh ngô đã tiến về chứa từng cót đầy ăm ắp. Một lần nữa, Người sung sướng trông thấy “trí khôn” của mình lại qua mặt được Quỷ.
Sự trở lại của Quỷ dữ
Tuy nhiên sau ba vố lừa “hattrick” như thế, phản ứng của Quỷ lại hoàn toàn khác xưa. Chúng không tức tối, gào thét, lồng lộn… mà chỉ kéo nhau dàng thành hàng, đứng lặng thinh trên bãi biển, sát biên giới giữa lãnh thổ của Người và Quỷ.
Quỷ Vương bước ra khỏi đám đông, cất giọng rền vang nói hướng vào đất liền:
“Các ngươi quá thiển cận chỉ biết toan tính gần mà không biết suy nghĩ xa, chỉ biết mưu lợi riêng mà mặc kệ cho người khác chịu thiệt thòi. Làm ăn với nhau mới được vài ba lần đã bắt đầu giở trò mánh mung. Các ngươi không nghĩ rằng từ nay về sau bọn ta sẽ hủy giao kèo, không cho phép các ngươi đánh cá nữa hay sao?”
Thủ lĩnh của loài người đứng trong đất liền, bắt loa nói vọng ra biển:
“Chúng tôi đã thực hiện theo đúng giao kèo, về nguyên tắc là không sai điểm nào hết. Yêu cầu phía Quỷ các ngươi phải hết sức bình tĩnh và tránh những hành động thù địch, làm ảnh hưởng đến quan hệ hữu nghị, hòa bình, bình đẳng song phương của chúng ta”.
“Nếu các ngươi đã trả lời chất vấn một cách vòng vo và phủ nhận trách nhiệm như thế, thì bọn ta tuyên bố hủy bỏ giao kèo. Loài người không được phép đánh cá trên vùng biển của chúng ta nữa”, Quỷ Vương hét lớn.
“Chúng tôi không cần sự cho phép của loài Quỷ các ngươi. Chúng tôi sẽ đem cây nêu Thần thánh ra trồng trên bờ biển để bóng áo cà sa phủ trùm lên mặt biển, khiến nó trở thành lãnh thổ của chúng tôi”.
Quỷ Vương cười lớn. Cả bộ tộc Quỷ cùng cất tiếng cười vang dội cả góc trời.
Rồi đàn Quỷ bắt đầu tiến bước vào đất liền. Quỷ đi đến đâu, bóng áo cà sa thủ nhỏ đến đó, lãnh thổ của Người càng bị thu hẹp lại.
Bộ lạc Người kinh hồn bật vía, bỏ chạy tán loạn. Quỷ chưa vào đến làng, mà khung cảnh ở đó đã lộn xộn chưa từng thấy. Mạnh ai nấy lo tìm đường tháo chạy, người già chậm chạp thì bị giẫm đạp, hàng quán thì bị hôi của. Quân đoàn Quỷ đang đi từ xa mà đã nghe thấy tiếng la khóc vang trời.
Thủ lĩnh Người là một già làng tuổi cao sức yếu, không chen lấn nổi trong dòng người hoảng loạn, chỉ biết ngồi ôm gốc cây nêu than khóc:
“Hu hu! Ông bà tổ tiên ôi, các vị đã nói cây nêu Thần này sẽ bảo hộ chúng con cơ mà, tại sao lại để Quỷ dữ tràn vào đất liền như thế. Hu hu! Hay đây chỉ là một thứ tín ngưỡng mê tín do các vị tưởng tượng ra?”
Nghe tiếng bước chân mạnh mẽ lạnh lùng dừng lại bên cạnh, già làng ngước nhìn lên, thấy Quỷ Vương với vóc dáng cao lớn, lực lưỡng, trên đầu có cặp sừng nhọn hoắc và cong vút hướng ra sau, hơi thở ra lửa, đang đứng liếc nhìn xuống. Quỷ Vương vung bàn tay cứng như thép nguội chặt gãy cây nêu. Cây nêu ngã xuống đâm thủng nóc một căn nhà, bật tung bếp lò bên trong, lửa nhanh chóng bùng lên nuổi chửng căn nhà và chẳng mấy chốc đã lan ra cả làng.
Nhe hàm răng nanh lởm chởm cười nhạo già làng, Quỷ Vương nói:
“Sự thần thánh của cây nêu là có thật, đã từng có thật. Lúc bấy giờ lãnh thổ của Người được bao phủ bởi Pháp lực của Thần, vốn chỉ dành cho những người đạo đức cao thượng, trên tín ngưỡng Thần linh, dưới lấy đức trị dân. Môi trường ấy không phù hợp với bọn ta, cho nên bọn ta buộc phải lùi bước. Nhưng hôm nay thì…chà chà… bọn ta vô cùng thoải mái với bầu không khí do những suy nghĩ ranh mãnh và chiêu thuật bẩn thỉu của các ngươi. Tương đương với việc Người đã tôn Quỷ Vương làm vua, từ giờ trở đi các ngươi sẽ là nô lệ của ta”.
Đám cháy trong làng đã tắt. Trong đám tro tàn, một chiếc áo cà sa xám xịt, sờn rách, cháy xém, không gió mà bay, bay về nơi chân trời.
Châu Xuân