Nhân quả vốn là quy luật của vũ trụ, bất cứ sinh mệnh nào trong cõi nhân sinh đều sẽ phải chịu sự chi phối của quy luật này. Bởi vậy, người ta vẫn truyền tụng nhiều tích cổ có thật về trả nghiệp báo ứng nhằm răn dạy con người sống có đạo hơn để tránh khổ sở về sau.
Nhân quả báo ứng, đứng về phương diện thời gian mà nói thì chính là mối quan hệ giữa quá khứ và hiện tại, hiện tại và tương lai. Trong kinh Phật có thuyết pháp “Tam thì báo” chính là hiện báo, sinh báo và hậu báo.
Hiện báo, hay nói chính xác là hiện thế báo, là có báo ứng ở hiện tại. Sinh báo chính là chỉ việc kiếp này làm thì kiếp sau mới có báo. Cái gọi là “báo” chính là nói kiếp này làm đủ loại nghiệp, không bị hiện thế báo, cũng không bị sinh báo, mà phải qua nhiều kiếp nữa mới bị báo.
Chúng ta hãy lấy thực vật làm ví dụ: Có loại cây trồng vào mùa xuân, mùa thu đã ra hoa kết quả, đây gọi là “hiện báo”. Có loại năm nay trồng, sang năm có thể ra hoa kết quả, đây tương đương với “sinh báo”. Còn có loại cây năm nay trồng lại phải đợi nhiều năm sau mới ra hoa kết quả, đây được gọi là “hậu báo”.
Có một bài thơ viết thế này: “Hành tàng hư thực tự gia tri, họa phúc nhân do canh vấn thùy? Thiện ác đáo đầu chung hữu báo, chích tranh lai tảo dữ lai trì”. Ý nói: Các việc làm minh bạch hay bí ẩn, hư thực thì tự mình biết. Họa phước sẽ từ đấy mà ra, lại còn phải hỏi ai? Thiện ác cuối cùng rồi cũng có báo ứng, chỉ đến sớm hay đến muộn mà thôi.
Còn người làm điều ác mà vẫn hưởng hạnh phúc, sung sướng là vì kiếp trước họ có phúc lớn, sang kiếp này vẫn chưa dùng hết. Đợi đến lúc người đó dùng hết rồi thì ắt sẽ phải chịu khổ chịu nạn ngay lập tức.
Có một câu chuyện kể về nhân quả giữa quá khứ, hiện tại và tương lai như thế này…
Trước đây có một vị hòa thượng phát tâm muốn xây dựng một ngôi chùa, ông liền đi hóa duyên. Hóa duyên trong kinh Phật trước đây không phải chỉ là đi xin ăn như bây giờ mà là lựa chọn hoặc ngồi, hoặc đứng hoặc đến nơi dân chúng, tụng kinh, thuyết pháp để cảm hóa dân chúng, cùng chúng sinh kết thiện duyên và cùng nhau xây dựng chùa.
Thế nhưng, vị hòa thượng đó, ở một nơi kia vất vả tụng kinh niệm Phật, niệm đến hơn ba tháng ròng rã mà vẫn không có người nào để ý đến ông cả.
Thế rồi, một cậu bé bán bánh nướng ở bên cạnh nhìn thấy vị hòa thượng này quá khổ sở, cậu thật không đành lòng. Lòng từ bi của cậu bé tự nhiên sinh ra, cậu liền nghĩ: “Được! Vị hòa thượng kia cực khổ như vậy, mình sẽ đem bánh nướng bán đi rồi cho ông ấy tiền!”. Thế là, ngày hôm đó cậu bé bán được bao nhiêu tiền bánh nướng đều mang về quyên hết cho vị hòa thượng kia.
Cả thị trấn đó, ai ai cũng nghe nói cậu bé bán bánh nướng quyên tiền cho vị hòa thượng nên sinh lòng hổ thẹn và tự nghĩ: “Đứa bé bán bánh nướng mà cũng biết phát tâm hành thiện tích đức, mình đúng là bủn xỉn. Chẳng lẽ mình còn không bằng một đứa trẻ sao?”. Thế rồi, cứ một người truyền mười người, mười người lại truyền một trăm người. Ông này quyên tiền, bà kia góp tiền, chẳng bao lâu đã đủ tiền để xây dựng chùa.
Vị hòa thượng vô cùng cảm kích cậu bé này, ông nói với cậu bé: “Này cậu bé! Cậu hôm nay phát tâm làm được việc đại đức, tương lai nếu cậu có khó khăn gì hãy nhớ đến chùa tìm ta nhé!”. Cậu bé đồng ý rồi vui vẻ rời đi.
Ai ngờ, vừa trở về nhà, vì không nộp đủ tiền bán bánh nướng nên bị ông chủ mắng mỏ thậm tệ rồi đuổi đi. Cậu bé nhất thời chưa tìm được công việc mới, nên ngày ngày lang thang trên đường và cuối cùng trở thành một người ăn mày.
Cậu bé chẳng những hàng ngày không được ăn đủ ba bữa cơm mà còn rơi vào tình cảnh vô cùng khốn khó. Hơn nữa, cậu bé còn bị bệnh chốc đầu và mắt cũng bị mù. Đến lúc này thì ngay cả việc ăn xin cũng không còn là việc dễ dàng với cậu nữa, thực sự là đã ở vào bước đường cùng.
Bỗng nhiên cậu nhớ ra, nhớ tới lời vị hòa thượng nói, chợt cậu cảm thấy tìm được “đường sống trong cõi chết”. Thế là cậu từng bước, từng bước tìm đến ngôi chùa kia.
Lúc này vị lão hòa thượng đã tu thành, đã chứng được “tam minh lục thông” nên ông biết rõ cậu bé ăn mày sẽ đến chùa để cầu viện. Ngay vào lúc ban đêm hôm trước, ông đã triệu tập mọi người trong chùa và nhắn nhủ: “Ngày mai có vị ‘đại hộ pháp’ tới chùa, mọi người hãy mở cửa chùa cung kính nghênh đón, không thể sơ suất!”
Mọi người nghe xong, ai nấy đều khó hiểu, người nào cũng tò mò không biết rốt cuộc là ai sẽ đến chùa vào ngày mai. Họ nhìn vị lão hòa thượng lại thấy bộ dạng của ông không phải là nói đùa, nên đã nhịn không được mà tranh nhau hỏi vị hòa thượng người muốn đến chùa là ai? Vị hòa thượng phất ống tay một cái rồi nói: “Dù thế nào cũng nhất định có người đến là được!”
Ngày hôm sau, tất cả các vị sư trong chùa đều chuẩn bị nghênh đón người “đại hộ pháp”, nhưng mãi đến tận tối mà vẫn không thấy ai tới chùa. Vị sư tiếp khách nghi nghi hoặc hoặc tới hỏi vị lão hòa thượng: “Thưa thầy, không có vị đại hộ pháp nào tới chơi ạ!”. Vị lão hòa thượng nghiêm mặt hỏi lại: “Chẳng lẽ hôm nay không có bất kể một người nào đến chùa sao?”
Vị sư tiếp khách trả lời: “Không có một ai ạ! Chỉ có…chỉ có một tên ăn mày nhỏ nhỏ mò mẫm tới mà thôi. Tên ăn mày đó muốn vào nhưng con sợ hỏng mất buổi đại lễ tiếp khách nên đã cho hắn mấy cái bánh rồi đuổi đi rồi ạ!”
Lão hòa thượng hai mắt mở to rồi nói lớn: “Người này chính là ‘đại hộ pháp’ của chúng ta, mau mời vào! Mau mời ngay vào! Mau chóng đuổi theo để mời vào!”
Vị sư tiếp khách nghe thấy liền kinh ngạc, vẻ mặt biểu lộ sự băn khoăn nhưng lại không dám cãi lời sư trụ trì, đành phải lập tức xuống núi truy tìm.
May là cậu bé bị mù lòa nên đi chậm chạp, không lâu sau thì các sư cũng tìm thấy cậu. Họ đưa cậu về chùa, chăm sóc và để cậu ở lại chùa.
Nhưng thật không ngờ, một đêm nọ, cậu bé mù lòa đi vệ sinh không may bị rơi xuống hầm cầu mà chết đuối.
Tin tức được truyền ra ngoài, rất nhiều người biết tin và cảm thấy thật bất công với cậu: “Mọi người nói xem, làm gì có nhân quả báo ứng ở trên cõi đời này đây? Cậu bé vốn có nghề bán bánh nướng, cuộc sống tương đối tốt. Cậu lại hết lần này đến lần khác hành thiện tích công đức thế mà về sau lại toàn gặp vận xấu. Đầu tiên là bị đuổi việc trở thành ăn mày, tiếp đến là bị mù lòa, thật khổ sở mới tới được chùa sinh sống thì lại bị rơi xuống hầm cầu mà chết đuối. Mọi người nói đi, nhân quả là cái gì?”
Cuối cùng những lời nói này cũng tới tai vị lão hòa thượng. Lão hòa thượng bèn cho mời rất đông mọi người tới, ông giảng rõ cho mọi người về “tam thế quả báo”: “Cậu bé kia căn cứ vào nghiệp lực trong quá khứ, nên phải chịu ba đời thống khổ. Đời thứ nhất chính là phải chịu chốc đầu, đời thứ hai là bị mù lòa, đời thứ ba là bị rơi xuống hầm cầu mà chết.
Nhưng cậu bé một lòng từ bi, phát tâm làm đại công đức, nên nghiệp lực kia sớm được rút ngắn đi, cậu ấy chỉ phải trả những nghiệp lực đó trong một đời này thôi. Cậu đã được rút ngắn đi hai đời phải chịu thống khổ. Hiện tại cậu ấy đã được siêu sinh rồi! Nhân quả đều hiện rõ ra đầy đủ cả, sao có thể nói là không báo không ứng đây?”
Mọi người nghe xong đều xúc động vô cùng, cảm thấy tam thế nhân quả thật không thể tưởng tượng nổi.
Có câu: “Giả sử bách thiên kiếp, sở tác nghiệp bất vong; nhân duyên tế ngộ thì, quả báo hoàn tự thụ”, ý nói là hạt giống hành thiện, hành ác dù trải qua bao nhiêu năm tháng, vẫn sẽ sinh trưởng trong bùn đất, một khi nhân duyên tụ hợp, thời cơ chín muồi, có ánh mặt trời, không khí, giọt sương, nó sẽ lập tức đâm trồi nảy lộc, ra hoa và kết quả, tự thụ tự báo!
Theo ĐKN