Gia Cát Lượng là một nhà quân sự tài ba, nhà tiên tri kiệt xuất thời Tam quốc. Ông thường được mô tả là mặc một chiếc áo choàng dài và tay phe thì phe phẩy chiếc quạt bằng lông vũ. Dưới đây là câu chuyện về nguồn gốc của chiếc quạt.
Khi 8 tuổi Gia Cát Lượng vẫn chưa biết nói, gia cảnh lại nghèo nên gia đình đã để ông chăn cừu trên một ngọn núi gần đó.
Trên núi có một đạo quán là nơi cư trú của một lão đạo sĩ tóc bạc. Lão đạo sĩ mỗi ngày đều ra ngoài đi du ngoạn. Một ngày nọ,
ông trông thấy Gia Cát Lượng và thử trêu đùa cậu bé thì thấy cậu bé cũng đùa lại với ông. Từ đó cậu bé và lão đạo sĩ thường trò chuyện với nhau bằng cách ra dấu tay. Thấy Gia Cát Lượng thông minh lại dễ thương nên lão đạo sĩ quyết định chữa khỏi bệnh cho cậu và thu làm đồ đệ.
“Hãy về nhà nói với cha mẹ rằng, ta sẽ thu con làm đồ đệ, dạy con biết đọc biết viết, học thiên văn địa lý và học phép dùng binh. Nếu cha mẹ con đồng ý thì hằng ngày con hãy lên đây học với ta”, lão đạo sĩ nói.
Kể từ đó Gia Cát Lượng bái lão đạo sĩ làm sư phụ. Bất chấp gió mưa, hàng ngày cậu đều chăm chỉ lên núi nghe giảng. Nhờ trí thông minh thiên phú nên sách chỉ cần xem qua là đã hiểu, nghe giảng xong liền nhớ ngay nên lão đạo sĩ ngày càng quý mến.
Thời gian thấm thoắt thoi đưa, nháy mắt một cái đã bảy tám năm trôi qua.
Một ngày nọ, khi đi qua một cái am bị bỏ hoang trên núi thì bỗng dưng một trận cuồng phong ở đâu kéo tới mang theo mưa gió rợp trời. Gia Cát Lượng vội chạy vào trong am để trú mưa thì bỗng nhiên một cô gái từ đâu bước ra, ân cần mời cậu vào nhà. Chỉ thấy cô gái này mày nhỏ mắt to, mảnh mai kiều diễm tựa như tiên nữ hạ phàm. Gia Cát Lượng cảm thấy bị cuốn hút bởi cô gái. Khi trời tạnh mưa, cô gái tiễn cậu ra cửa, cười nói: “Hôm nay chúng ta coi như đã biết nhau. Từ nay về sau khi lên núi xuống núi thì xin hãy qua đây nghỉ ngơi và dùng trà”. Gia Cát Lượng cảm thấy hơi kỳ quái bởi tại sao nơi này có người ở mà cậu lại không biết.
Từ đó về sau, ngày nào Gia Cát Lượng cũng tới đây trò chuyện và dùng bữa với cô gái. Ăn cơm xong hai người không chỉ cười nói mà còn đánh cờ giải khuây. So với đạo quán, nơi đây quả thực là một thế giới khác hẳn.
Tâm trí Gia Cát Lượng bị ảnh hưởng và cậu cảm thấy chán nản khi học tập. Sư phụ giảng đến đâu thì quên đến đó, nghe tai này thì ra tai kia, lúc đọc thì không biết sách đang nói về cái gì, càng xem càng thấy khó hiểu.
Lão đạo sĩ biết có vấn đề, bèn gọi Gia Cát Lượng đến, thở dài một tiếng rồi nói: “Trồng cây thì khó, đốn cây thì dễ. Ta đã tốn quá nhiều công sức vì ngươi rồi”.
Gia Cát Lượng nghe vậy vội quỳ sụp xuống rồi nói: “Sư phụ! Con sẽ không cô phụ một phen khổ tâm của người”.
“Lời này hiện ta không thể tin”, lão đạo sĩ nhìn Gia Cát Lượng và nói.
“Ta thấy ngươi là đứa trẻ thông minh, định dạy ngươi thành tài, nên mới trị bệnh cho ngươi, thu ngươi làm đồ đệ. Mấy năm trước ngươi thông minh cần mẫn, sư phụ ta khổ tâm dạy ngươi cũng không cảm thấy khổ; nào ngờ giờ đây ngươi từ cần mẫn thành lười nhác, tuy thông minh mà cũng uổng công, lại còn nói sẽ không cô phụ một phen khổ tâm của ta, ta tin sao đây?”
“Gió không thổi, cây không động, thuyền không đảo, nước không đục”. Nói rồi chỉ vào cái cây cổ thụ bị rất nhiều dây mây cuốn quanh thân rồi nói: “Ngươi xem, cái cây kia tại sao sống dở chết dở, không thể lớn hơn được?”
“Bởi vì bị dây mây cuốn chặt nên nó không lớn lên được”, Gia Cát Lượng đáp.
“Đúng rồi, cái cây này ở trên núi nơi đất đá khô cằn, rất cực khổ nhưng vẫn sống tốt vì nó quyết chí cắm rễ sâu xuống dưới, đâm cành lên trên, không sợ nóng, không sợ lạnh, nên ngày càng cao lớn. Thế nhưng cái dây mây chỉ quấn quanh một chút mà nó đã không lớn lên được. Cái này gọi là ‘lạt mềm buộc chặt’ đấy”, lão đạo sĩ nói.
Gia Cát Lượng nghe xong giật mình hỏi: “Sư phụ, sao ngài biết chuyện?”
Lão đạo sĩ nói: “Gần nước biết tính cá, gần núi rõ tiếng chim. Ta xem thần sắc ngươi, quan sát hành động của ngươi, còn không biết tâm tư của ngươi hay sao?”
Lão đạo sĩ ngừng lại một lúc rồi nghiêm sắc mặt nói: “Nói cho ngươi rõ, đứa con gái mà ngươi thích kia chẳng phải là người, nó nguyên là một con tiên hạc trên Thiên Cung, chỉ vì ăn vụng đào của Vương Mẫu mà bị đánh hạ xuống trần để chịu khổ. Tới nhân gian, nó hóa thành mỹ nữ, văn võ thì không, cày bừa chẳng biết, chỉ biết tầm hoan tác nhạc. Ngươi thấy tướng mạo nó đẹp, nhưng nó chỉ biết có ăn và ngủ thôi. Ngươi cứ thần hồn điên đảo thế này, cuối cùng chẳng làm nên trò trống gì đâu. Thậm chí nếu không chiều theo ý nó, nó còn làm hại ngươi”.
Gia Cát Lượng nghe xong sợ quá vội hỏi xem phải làm sao.
Lão đạo sĩ nói: “Cứ đêm đến là nó hiện nguyên hình để bay lên Thiên Hà tắm rửa. Lúc đó ngươi hãy lẻn vào phòng của nó, trộm lấy y phục của nó rồi đem đốt đi. Bị đốt rồi thì nó không thể hóa thành mỹ nữ nữa”.
Lão đạo sĩ đưa cậu một cây gậy đầu rồng và nói: “Con hạc này khi phát hiện trong am có hỏa tất sẽ từ Thiên Hà mà lao xuống. Gặp thấy ngươi đang đốt xiêm y, chắc chắn nó sẽ không bỏ qua. Đến lúc đó hãy dùng cây quải trượng này mà đánh nó”.
Gia Cát Lượng nghe xong lời dặn dò của sư phụ liền bái lạy rồi rời đi.
Đêm hôm đó, lựa lúc canh khuya vắng lặng, Gia Cát Lượng nhẹ nhàng lẻn vào trông am thì quả nhiên thấy bộ xiêm y trên giường nhưng lại không thấy người đâu. Ngay lập tức cậu nhóm lửa để đốt cháy bộ xiêm y.
Tiên hạc đang lúc tắm rửa trên Thiên Hà, đột nhiên cảm thấy trong lòng bất an liền vội vàng đi xuống nhìn quanh thì thấy trong am có lửa, nó vội vàng hét to rồi phi xuống. Xuống đến nơi thấy Gia Cát Lượng đang đốt xiêm y, nó liền nhào tới mổ vào mắt. Gia Cát Lượng nhanh trí né được rồi dùng cây quải trượng trong tay đánh con hạc rớt xuống đất. Sau đó cậu lao tới chộp lấy nó nhưng chỉ túm được cái đuôi. Tiên hạc hoảng sợ liều mạng vùng vẫy, vỗ cánh thật mạnh bay vọt lên không trung để thoát thân, nhưng đám lông đuôi thì đã bị Gia Cát Lượng giật đứt hết.
Tiên hạc bị cụt đuôi, không còn giống những tiên hạc khác trên Thiên Cung nữa nên vô cùng xấu hổ. Nó không dám lên Thiên Hà tắm nữa, cũng không thể biến lại thành mỹ nữ vì đã bị đốt mất xiêm y nên đành vĩnh viễn ở lại nhân gian, chui vào sống lẫn lộn giữa bầy hạc.
Trải qua một trận kinh tâm động phách, Gia Cát Lượng không dám giải đãi, liền đem đám lông đuôi cất giữ cẩn thận, lấy đó làm tấm gương để tự răn mình.
Từ đó về sau Gia Cát Lượng ngày càng cần mẫn, phàm sư phụ giảng gì, đọc sách gì thì đều ghi nhớ, tâm lĩnh thần hội, biến chúng thành thứ của bản thân mình. Lại một năm nữa trôi qua, đúng vào ngày Gia Cát Lượng đốt xiêm y của mỹ nữ, lão đạo nhân cười nói với Gia Cát Lượng: “Đồ đệ này, ngươi theo ta đã chín năm rồi, sách gì cần đọc thì đã đọc rồi, điều gì cần truyền thụ thì đã nghe rồi. Có câu nói ‘sư phụ lĩnh tiến môn, tu hành tại cá nhân’, ngươi nay đã 18 tuổi rồi, còn cần lập gia đình, ngươi hãy tự mình xử lý mọi việc”.
Gia Cát Lượng thấy sư phụ nói đã “học xong”, bèn vội vàng khẩn cầu: “Sư phụ, đồ đệ càng học càng thấy học thức nông cạn, con nguyện ở lại với ngài học thêm bản lĩnh”.
“Bản lĩnh chân chính cần phải trong khi thực hành mới có thể đạt được. Sách đã học rồi, còn cần xem Trời Đất thiên biến vạn hóa thế nào, tùy thời mà chuyển, tùy cơ ứng biến, mới có thể hữu dụng được! Hãy lấy con tiên hạc kia làm bài học giáo huấn, từ nay chớ lại để tình sắc làm mê đắm nữa. Hết thảy sự việc trên đời đều là giả tướng, nhất định phải cẩn thận, không được để bị mê hoặc. Coi như đây là lời dặn dò lúc chia tay! Hôm nay ta phải đi đây!”, lão đạo sĩ nói.
“Sư phụ, ngài định đi đâu?”, Gia Cát Lượng kinh ngạc hỏi, “Từ nay con biết đến đâu để tìm ngài?”
“Vân du bốn biển, không có định hướng”, lão đạo sĩ đáp.
Nhất thời không biết làm sao, Gia Cát Lượng nước mắt tuôn rơi, nói: “Sư phụ nhất định phải đi thì xin hãy nhận của đồ đệ này một lạy gọi là cảm tạ ơn dưỡng dục”.
Gia Cát Lượng cúi mình làm lễ, lễ xong ngẩng đầu lên thì đã không thấy sư phụ đâu nữa.
Để tưởng nhớ sư phụ, Gia Cát Lượng thường khoác chiếc áo Bát Quái mà sư phụ để lại, coi như vĩnh viễn cõng sư phụ trên lưng. Ông cũng thường cầm chiếc quạt lông vũ làm từ lông đuôi Tiên hạc trên tay để tự nhắc nhở mình phải hành xử thận trọng. Đây chính là lai lịch của chiếc quạt lông vũ trên tay Gia Cát Lượng.
Theo Minhhue.net