Hằng năm, cứ đến tháng 7 Âm lịch là mùa Vu Lan báo Hiếu, rất nhiều người lại cử hành những hoạt động đặc biệt để đền đáp hoặc tưởng nhớ đến ơn đức sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Đây vốn là điều rất có ý nghĩa, nhưng khi nhận thức về tín ngưỡng trở nên thay đổi hay méo mó, người ta có thể dễ dàng đi sang cực đoan. Ngày nay, đã xuất hiện rất nhiều người có quan niệm cho rằng “cha mẹ là Phật”, thậm chí có người mang cha mẹ của mình để ngang hàng với Thần Phật trong các chùa,… điều này có thật sự thỏa đáng hay không?
Vu Lan là ngày lễ của Phật giáo, bắt nguồn từ câu chuyện cổ Mục Kiền Liên cứu mẹ.
Mục Kiền Liên là vị đệ tử có “thần thông đệ nhất” của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, mẹ ông là bà Thanh Đề vì tạo nhiều ác nghiệp nên sau khi chết bị đọa vào kiếp Ngạ quỷ. Mục Kiền Liên dùng thiên nhãn quan sát thấy mẹ đang chịu muôn vàn đau khổ, trong lòng thương xót, nhưng dù có tài phép siêu phàm thì một mình ông cũng không thể cứu được mẹ mình thoát khỏi khổ hình, vì vậy ông đã cầu xin Đức Phật.
Theo lời chỉ dạy của Đức Phật, vào ngày rằm tháng 7, Mục Kiền Liên tổ chức cúng dường, thỉnh mời các vị cao tăng khắp mười phương đến cùng ông cầu nguyện, phát Thiện niệm, hồi hướng công đức cho những chúng sinh đang chịu khổ hình trong ác đạo. Nhờ vào thần lực và năng lượng từ bi thuần chính của chư tăng, rất nhiều vong linh ở cõi Ngạ quỷ đã được siêu độ, trong đó có cả mẹ của Mục Kiền Liên. Sau đó, bà sám hối sửa sai, thành tâm hướng Thiện, nên được hóa sinh về cõi Trời.
Từ đó, ngày rằm tháng 7 (Âm lịch) hằng năm trở thành ngày Vu Lan, là dịp con cái báo hiếu cho cha mẹ, và cũng gọi là dịp “xá tội vong nhân” – thường tổ chức siêu độ cho những vong linh đang chịu khổ hình trong cõi ngạ quỷ, địa ngục.
Câu chuyện Mục Kiền Liên cứu mẹ của Phật giáo có một tầng ý nghĩa nhắc nhở người làm con không được quên ơn nghĩa sinh thành của cha mẹ, tương đồng với “hiếu đạo” trong truyền thống của người Việt Nam chúng ta và với tư tưởng của Nho giáo, nên dễ dàng được tiếp thu và trở thành một nét văn hóa của nước Việt từ ngàn năm nay.
Thực tế, hễ là tôn giáo chân chính thì đều dạy người hướng Thiện, và có câu rằng “Bách Thiện, Hiếu vi tiên” (trong trăm điều Thiện, trước tiên là Hiếu), nên “hiếu” đương nhiên trở thành nền tảng của đạo đức con người. Trong các điều răn của Thiên Chúa cũng có nhắc đến việc phải “hiếu kính với ông bà cha mẹ”, cho thấy dù là văn hóa phương Đông hay phương Tây cũng đều đồng thuận về điểm này.
Tuy nhiên, ngày nay khi phát triển đến cực đoan, nhiều người đã cho rằng Phật giáo là “đạo hiếu”, điều này có lẽ đã sai khác so với nội hàm chân chính của những lời Đức Phật giảng trong kinh sách. Như trên đã nói, bất cứ chính giáo nào, dù là Nho giáo, Phật giáo, hay Thiên Chúa giáo… cũng đều giảng về “hiếu”, bởi vì đây là gốc rễ của Thiện, chứ không riêng gì Phật giáo.
Phật giáo hướng đến việc tu hành để giải thoát, trong quá trình tu hành, vì tâm từ bi mà làm điều tốt cho rất nhiều chúng sinh, chứ không chỉ riêng với cha mẹ của mình. Nghĩa là, lòng từ bi của người tu Phật, là cái tâm to lớn hướng đến vô số sinh mệnh trong lục đạo luân hồi, trong đó có cả cha mẹ, chứ không phải chỉ là những tình cảm nhỏ bé dành riêng cho cha mẹ của mình.
Mục Kiền Liên khi cùng tăng chúng siêu độ vong linh, thì không chỉ là mẹ ông, mà còn có rất nhiều chúng sinh khác ở cõi Ngạ quỷ cũng nhờ đó mà siêu thoát, gồm cả những sinh mệnh không phải là người thân hoặc người quen của ông. Điều ông muốn là cứu độ tất cả chúng sinh mà ông đủ năng lực cứu, chứ không chỉ riêng gì mẹ ông. Không thể lầm lẫn giữa lòng từ bi của một người tu Phật đã đắc đạo như Mục Kiền Liên với cái tình thông thường của con người.
Như vậy, trọng điểm của nhà Phật là tu Thiện, từ bi với chúng sinh, chứ không hoàn toàn chỉ nhấn mạnh chữ “hiếu”. Thực chất, tư tưởng đặt nặng chữ “hiếu” và chữ “trung” là của Nho giáo. Nho giáo giảng “nhập thế”, đạo làm người, trong nhà thì hiếu kính và phụng dưỡng cha mẹ, ra ngoài thì dốc lòng trung thành với quốc gia xã tắc, phò tá minh quân,…
Còn Phật giáo giảng “xuất thế”, “xuất gia”, nên cần rũ bỏ thất tình lục dục và các tâm chấp trước của người thường. “Trung” và “hiếu” là điều đương nhiên phải làm của người thường, nhưng với người tu hành Phật giáo thì đây là chấp trước cần dần dần trừ bỏ trong quá trình tu tập, bởi nếu còn đặt nặng nó trong tâm thì không cách gì ngộ đạo và đạt được giải thoát. Nguyên nhân không phải cái nào đúng cái nào sai, mà là người tu có Pháp lý của người tu, còn người thường có Đạo lý làm người của người thường, hai cảnh giới này không giống nhau.
Nhưng vào thời nhà Tống, hoàng đế Huy Tông từng có chính sách “cải cách” Phật giáo, ép nhiều tăng ni phải học tập “Hiếu kinh” của Nho giáo, nên mới khiến nhiều điều chân chính trong Phật giáo bị thất truyền hoặc lẫn lộn với tư tưởng Nho giáo, đến ngày nay thì không còn tìm ra nguyên nghĩa của nó nữa.
Thậm chí đã xuất hiện quan niệm cho rằng “cha và mẹ là hai vị Phật”, rất nhiều tín đồ Phật giáo cũng cho là vậy. Đương nhiêu, hiếu kính cha mẹ là không sai, hơn nữa là việc chắc chắn phải làm của một con người. Nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc có thể đưa cha mẹ xếp ngang hàng với Thần Phật.
Phật Đà là bậc Đại Giác Giả, là người đã giác ngộ chân lý vũ trụ, có trí huệ và năng lực vượt rất xa người thường, có lòng từ bi vĩ đại bao dung tất cả chúng sinh, có thể phổ độ chúng sinh,… những bậc cha mẹ thông thường liệu có thể làm được đến mức ấy hay không?
Thuận theo việc đạo đức đang ngày càng trượt dốc, những kẻ làm điều ác trên thế gian càng ngày càng nhiều: khủng bố, phóng hỏa giết người, trộm cướp, tham nhũng,… xuất hiện khắp nơi. Những người đang hằng ngày làm ác ấy, có ai nói rằng họ không thể làm cha mẹ, có ai nói rằng họ không thể sinh con? Hễ sinh được con thì họ liền thành “Phật” hay sao? Ngay cả người rất tốt mà muốn thành Phật thì còn phải tu hành gian khổ, huống hồ những kẻ ác đó!
Tất nhiên người làm con không thể vì cha mẹ đã phạm sai lầm mà oán trách hay thù ghét cha mẹ được, hơn nữa nếu biết đó là sai thì cần ra sức khuyên ngăn cha mẹ, hoặc cố gắng giúp cha mẹ bù đắp lỗi lầm,… đó cũng là trách nhiệm của con cái, xưa nay đều nhìn nhận như vậy. Nhưng không thể vì tôn kính cha mẹ mà xem cha mẹ như là Phật được. Cha mẹ nếu không tu hành đắc đạo thì vẫn chỉ là những người thường.
Nhiều người giàu có và quyền thế, sau khi cha mẹ qua đời, thậm chí còn cử hành tang lễ cho cha mẹ một cách phô trương quá mức, sau đó gửi các chùa thờ cúng cha mẹ mình giống như thờ Phật, thờ chung một gian phòng với Phật và các vị Bồ Tát, có người còn xây tượng Phật trong nghĩa địa cạnh mộ cha mẹ, mong Phật “giữ mộ” giúp mình,…
Nếu hiểu được sự vĩ đại và uy nghiêm của Thần Phật, thì người ta sẽ minh bạch rằng đây chính là đang phỉ báng Phật. Những người quá cố kia sẽ vì hành vi này của người sống mà gánh chịu thêm biết bao nhiêu tội nghiệp? Như thế sao có thể nói là “hiếu” với cha mẹ đây?
Người ta chỉ có dốc lòng kính Phật và hướng Thiện, biểu hiện ra không phải ở việc cúng kiếng mâm cao cỗ đầy, mà là trong đời sống hằng ngày, đối xử tốt với mọi người xung quanh, ra sức làm nhiều việc thiện và trừ bỏ việc ác, giúp đỡ người gặp nạn, tha thứ cho người phạm sai lầm, nuôi dưỡng tình yêu thương và bao dung, tích thật nhiều công đức mà hồi hướng cho cha mẹ của mình. Chỉ những điều này mới thật sự là có ích cho cha mẹ.
Đức Mục Kiền Liên năm xưa cứu độ mẹ mình và vô số chúng sinh ra khỏi cõi Ngạ quỷ, cũng dựa vào uy đức và năng lượng từ bi của các vị cao tăng thập phương, dựa vào công đức đã tạo được mà hồi hướng cho người đã khuất, chứ không phải nhờ cúng bái và cầu xin mà đạt được.
Thế Di