Nhà triết học người Đức Gottfried Leibniz được biết đến là người đầu tiên giới thiệu hệ thống nhị phân, đặt nền móng cho chiếc máy tính ra đời. Tuy nhiên, hệ nhị phân đã được sử dụng ở Ấn Độ và Polynesia cổ đại từ rất lâu trước khi Leibnitz phát minh ra nó.
Năm 1703, nhà triết học người Đức Gottfried Leibniz đã chứng minh được những lợi thế của hệ thống nhị phân trong việc tính toán và nhờ vậy ông đã đặt nền móng cho chiếc máy tính ra đời.
Tuy nhiên, Leibniz không phải là người đầu tiên khám phá ra hệ nhị phân. Sáng chế của ông chỉ là một phát minh lại dựa trên kiến thức cổ xưa.
Có bằng chứng cho thấy người Ấn Độ cổ đại và người Polynesia đã quen thuộc với mã nhị phân từ hàng ngàn năm trước.
Với những khám phá này, các nhà khoa học giờ đây phải đặt lại câu đặt câu hỏi về nguồn gốc của hệ nhị phân và thời gian nó thực sự được được phát minh.
Kiến thức cổ đại về hệ nhị phân ở Polynesia
Sau khi nghiên cứu ngôn ngữ trên hòn đảo nhỏ Mangareva ở Thái Bình Dương, và quần đảo Polynesia thuộc Pháp, các nhà nghiên cứu Na Uy phát hiện ra rằng một trong hai hệ thống số thường sử dụng ở Mangareva có ba bậc nhị phân chồng lên một cấu trúc thập phân.
“Những người Polynesia đi biển đã rời đảo Mangareva khoảng năm 800 SCN để tìm kiếm những hòn đá tốt hơn cho các công cụ quan trọng và họ đã tìm thấy chúng trên quần đảo Pitcairn. Thương mại phát triển rực rỡ giữa các hòn đảo này và những người định cư đã chế tác những vị thần đá khổng lồ, chạm khắc hình người, động vật và hình học thành các bức vẽ trên đá, lập nên những khu vực chôn cất và để lại nhiều đồ tạo tác. Một số người đến đây năm 1790 và tìm thấy móng đền thờ của họ và các dụng cụ bằng đá, minh chứng rằng Pitcairn đã từng là nơi sinh sống của cộng đồng người Polynesia cổ đại, có lẽ là đến từ đảo Mangareva”.
Việc người dân trên đảo Mangareva phát minh ra hệ số nhị phân trước khi được Leibniz mô tả chính thức hàng thế kỷ, đã chứng minh cho sự tiến bộ trong tính toán ngay cả khi chưa có đầy đủ các ký tự toán học. Điều này làm nổi bật vai trò của văn hóa đối với sự phát triển và đa dạng trong nhận thức số học.
Các nhà khoa học phát hiện những người Polynesia đến Mangareva từ hơn 1.000 năm trước đã sử dụng một hệ thống số thập phân giống như người Polynesia ở nhiều nơi khác. Tuy nhiên, vào năm 1450, người ở đảo Mangareva đã sử dụng một hệ thống kết hợp cơ sở số 10 và số 2. Trong ngôn ngữ ở đảo Mangareva, có những từ đại diện cho các số từ 1 đến 9 giống như hệ số thập phân.
Đối với các số từ 20 đến 80 họ sử dụng hệ số nhị phân, cùng các ký tự riêng biệt đối với số 20, 40 và 80.
Bản nhạc tiết lộ tri thức của người Ấn Độ cổ
Có một bản nhạc thú vị được viết bởi Pingala và một học giả chủ chốt cùng tác giả cuốn Chhandah shastra. Kết cấu của bản nhạc này đã cho thấy những kiến thức về hệ số nhị phân. Bản nhạc được ước tính là có từ thế kỷ thứ 2 SCN, nghĩa là có niên đại lớn hơn 1.500 năm so với hệ nhị phân của Leibnitz.
Theo các nhà nghiên cứu, Chhandah shastra là đại diện cho sự kết nối các âm tiết ngắn-dài trong một bản nhạc thông qua hệ số nhị phân.
Đôi khi người ta cho rằng Pingala là người đầu tiên sử dụng số 0 do ông đã sử dụng hệ nhị phân từ rất lâu. Tuy nhiên 0 và 1 thường chỉ được dùng trong các thuật toán hiện đại, còn Pingala đã sử dụng từ laghu (nhẹ) và guru (nặng) thay cho 0 và 1 trong việc mô tả âm tiết.
Bên cạnh đó việc hệ số nhị phân được phát minh ở Ấn Độ hầu như không còn gây bất ngờ cho giới nghiên cứu. Cách đây không lâu, các nhà khoa học đã phát hiện ra một bản thảo Ấn Độ cổ xưa có tên là Bakhshali, nội dung tấm bản thảo này đã viết lại lịch sử số 0 và cả ngành toán học.
TinhHoa tổng hợp