Tinh Hoa

Giỗ Tổ Hùng Vương, tìm về nguồn gốc “Con Rồng cháu Tiên” của dân tộc Việt

Cứ đến ngày Giỗ Tổ mùng Hùng Vương 10 tháng 3 Âm lịch hàng năm, người dân lại nô nức về lại Đền Hùng để tưởng nhớ tổ tiên đất Việt. Tương truyền nơi đây người con trưởng của Lạc Long Quân và Âu Cơ lên làm vua lấy hiệu Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang. Vậy vì sao xưa nay người ta vẫn thường quen nói, nguồn gốc tổ tiên của dân tộc Việt là “Con Rồng cháu Tiên”? Hôm nay, chúng ta sẽ cùng tìm về nguồn cội này.

Tương truyền, người con trưởng của Lạc Long Quân và Âu Cơ lên làm vua lấy hiệu Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang. (Ảnh: Pinterest)

“Con Rồng cháu Tiên” không chỉ là một câu nói hình tượng

Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có ghi chép:

Khi trời đất mới mở mang, có thứ do khí hóa ra, đó là dòng dõi Bàn Cổ. Có khí hóa ra rồi sau có hình hóa, không thứ gì ngoài hai khí âm dương cả. Kinh Dịch nói: ‘Trời đất nung ủ, vạn vật thuần hóa, đực cái hợp tinh, vạn vật hóa sinh’. Cho nên có vợ chồng rồi sau mới có cha con, có cha con rồi sau mới có vua tôi. Nhưng thánh hiền sinh ra, tất có khác thường, đó là do mệnh trời.

Nuốt trứng chim huyền điểu mà sinh ra nhà Thương, giẫm vết chân người khổng lồ mà dấy nhà Chu, đều là ghi sự thực như thế. Con cháu dòng dõi Thần Nông là Đế Minh lấy con gái Vụ Tiên mà sinh Kinh Dương Vương, tức là thủy tổ của Bách Việt. Vương lấy con gái Thần Long sinh ra Lạc Long Quân, Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai mà có phúc lành sinh trăm con trai. Đó chẳng phải là cái gốc đã gây nên cơ nghiệp của nước Việt ta hay sao?”.

Theo sách Lĩnh Nam Chích Quái của tác giả Trần Thế Pháp, một danh sỹ đời nhà Trần ghi chép lại, ông nội của Lạc Long Quân tên là Đế Minh, là cháu 3 đời của Viêm Đế (Thần Nông). Đế Minh sinh ra con cả Đế Nghi, rồi nam tuần đến núi Ngũ Lĩnh, gặp được nàng tiên nữ tên Vụ Tiên đem lòng thương yêu rồi cưới về, sinh ra được Lộc Tục có dung mạo đoan chính, thông minh.

Đế Minh kinh ngạc trước sự đoan chính, thông minh và tài trí của Lộc Tục, muốn Lộc Tục nối ngôi vua, nhưng Lộc Tục lại nhường cho anh. Đế Minh lập Đế Nghi cai trị phương Bắc (một phần Trung Quốc hiện giờ), phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương cai trị Phương Nam (đất Việt hiện nay), đặt quốc hiệu là Xích Quỷ.

Kinh Dương Vương xuống Thủy Phủ, cưới con gái vua Động Đình tên là Long Nữ, sau đó sinh ra Sùng Lãm, tức Lạc Long Quân.

Trong nhận thức và sự quan sát vạn vật của người thời xưa, Thủy Phủ song hành cùng Thiên Phủ và Địa Phủ, là các cõi không gian tồn tại đồng thời với không gian con người.

Như vậy theo những ghi chép này cũng như những sự tích được lưu truyền trong dân gian, ông ngoại của Lạc Long Quân vốn là một vị Long Vương cai quản hồ Động Đình, còn bà nội của Lạc Long Quân là một nàng tiên giáng trần.

Giỗ Tổ Hùng Vương và nguồn gốc “Tiên”, “Rồng” của người dân Việt cũng chính bắt nguồn từ đó

Hồ Động Đình (hồ lớn nằm ở đông bắc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc hiện nay), là một hồ lớn nhất thời bấy giờ ở Trung Quốc và đất Việt nước ta. Sau Lạc Long Quân đổi tên nước thành Văn Lang, có biên giới phía Bắc giáp hồ Động Đình.

Hồ Động Đình trong một buổi sớm sương mù. (Ảnh qua trip.com)

Tại Việt Nam trên đất An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình ngày nay, cũng có một ngôi đền thờ “Vua Cha Bát Hải Động Đình”, xưa là Hoa Đào Trang Chính Sơn Nam, sau gọi là Trang Đào Động. Đây chính là ngôi đền đã tồn tại gần 4.000 năm (từ thời Vua Hùng) trên đất Thái Bình.

Lạc Long Quân và Âu Cơ dựng lập đất Việt

Theo ghi chép trong Lĩnh Nam Chích Quái, Lạc Long Quân thay cha trị nước. Lạc Long Quân dạy dân cách ăn mặc, bắt đầu có trật tự về Quân Thần, tôn ty, có luân thường về phụ tử (cha con), phu phụ (chồng vợ). Lạc Long Quân thường vẫn đi về Thủy Phủ, nhưng trăm họ vẫn yên ổn.

Đền thờ chính thờ Lạc Long Quân, tại Đồi Sim, nằm trong quần thể di tích lịch sử Đền Hùng, Phú Thọ. (Ảnh: Wikipedia)

Dân lúc nào có việc cần thì kêu Lạc Long Quân: “Bố đi đằng nào, không đến cứu chúng con”, thì Lạc Long Quân lập tức xuất hiện ngay, uy linh cảm ứng không ai có thể trấn lượng được. Những thần thông và năng lực phi phàm của Lạc Long Quân được mô tả rất giản dị, tự nhiên trong ghi chép của Lĩnh Nam Chích Quái.

Đế Nghi truyền ngôi cho Đế Lai cai trị phương Bắc. Một ngày, Đế Lai cùng con gái là Âu Cơ và bộ chúng thị thiếp nam tuần qua Xích Quỷ, thấy Lạc Long Quân đã về Thủy Phủ, trong nước không có vua, bèn cùng mọi người lưu lại nơi này. Đế Lai chu du khắp thiên hạ, thấy biết bao kỳ hoa, dị thảo, trân cầm, dị thú, tê tượng đồi mồi, kim ngân, châu ngọc, hồ tiêu, nhũ hương, trầm đàn, các loại sơn hào hải vị, không thứ nào không có. Khí hậu bốn mùa lại dễ chịu, Đế Lai lưu lại quên cả ngày về.

Nhân dân nước Nam não khổ vì sự phiền nhiễu, không được yên ổn như xưa, đêm ngày mong đợi Lạc Long Quân về, nên mới cùng nhau kêu: “Bố ở phương nào, mau về cứu con dân”.

Lạc Long Quân nghe thấy tiếng kêu liền lập tức xuất hiện. Trông thấy nàng Âu Cơ dung mạo đẹp lạ lùng, mới hóa thành một chàng trai phong tú mỹ lệ, tiếng đàn ca vang tới. Âu Cơ trông thấy mà lòng cũng ưng theo, Lạc Long Quân bèn rước nàng về núi Long Trang.

Đế Lai sau khi tìm không thấy Âu Cơ bèn sai quân thần đi tìm khắp thiên hạ. Lạc Long Quân có thần thuật, biến hiện trăm cách, nào là yêu tinh quỷ mị, nào là long xà hổ tượng (rồng rắn hổ voi), quần thần được sai đi tìm không cách nào tìm được. Đế Lai đành trở về.

Bọc trăm trứng và cuộc phân ly

Âu Cơ ở với Lạc Long Quân giáp một năm, sinh ra một bọc trứng, cho là điềm không hay nên đem bỏ ra ngoài. Hơn bảy ngày sau, trong bọc nở ra một trăm trứng, mỗi trứng là một con trai, bèn đem về nuôi nấng, không cho ăn không cho bú mà tự nhiên cao lớn, trí dũng song toàn, ai cũng ngưỡng mộ.

Lạc Long Quân ở dưới Thủy Phủ, mẹ con Âu Cơ ở một mình, nhớ về Bắc quốc bèn đi lên biên giới. Vua đất Bắc lúc bấy giờ tên Hoàng Đế, nghe tin lấy làm sợ mới phân binh trấn ngự quan ải, mẹ con Âu Cơ không về được, đêm ngày gọi Lạc Long Quân: “Bố ở phương nào làm cho mẹ con ta thương nhớ!”.

Lạc Long Quân đột nhiên lại xuất hiện, gặp mẹ con ở Tương Dã, Âu Cơ nói:

“Thiếp vốn người đất Bắc, cùng ở một nơi với chàng, sinh ra được một trăm con trai mà không có gì cúc dưỡng, xin cùng theo nhau chớ nên xa bỏ, khiến cho ta là người không chồng không vợ, một mình vò võ…”.

Lạc Long Quân nói:

“Ta là loài rồng, sinh trưởng ở Thủy tộc, nàng là giống Tiên, người ở trên Đất, vốn chẳng như nhau, tuy rằng khí âm dương hợp lại mà có con, nhưng phương viên bất đồng, thủy hỏa tương khắc, khó mà ở cùng nhau trường cửu. Bây giờ phải ly biệt, ta đem năm mươi con trai về thủy phủ phân trị các xứ, năm mươi con trai theo nàng ở trên Đất, chia nước mà cai trị, dù lên núi xuống nước nhưng có việc thì cùng nghe, không được bỏ nhau”.  

50 con trai theo Lạc Long Quân về Thủy Phủ, 50 con trai theo Âu Cơ về lại trên Đất. (Ảnh: Pinterest)

Phân chia bờ cõi và dựng lập đất nước

Trăm trai đều theo mệnh, rồi mới từ giã ra đi. Âu Cơ cùng năm mươi người con ở lại Phong Châu (bây giờ là huyện Bạch Hạc), tự suy tôn người Hùng trưởng lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, quốc hiệu là Văn Lang. Về bờ cõi của nước thì Đông giáp Nam Hải (Biển Đông), Tây đến Ba Thục, Bắc đến Động Đình Hồ, Nam đến Hồ Tôn Tinh (nước Chiêm Thành), chia trong nước ra làm 15 bộ là: Giao Chỉ, Chu Diên, Ninh Sơn, Phúc Lộc, Việt Trường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Quế Dương, Vũ Ninh, Hoài Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Quế Lâm, Tượng Quân, sai các em phân trị, đặt em thứ làm tướng võ, tướng văn. Tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng Võ gọi là Lạc Tướng, con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương.

Dân khi ấy ăn mặc chưa đủ, phải lấy vỏ cây làm áo mặc, dệt cỏ ống làm chiếu nằm, lấy cốt gạo làm rượu, lấy cầm thú, cá tôm làm nước mắm, lấy rễ gừng làm muối. Đất nương khi ấy trồng nhiều gạo nếp, lấy ống tre thổi cơm, gác cây làm nhà để tránh hổ và lang sói, cắt ngắn đầu tóc để tiện vào rừng núi. Con đẻ ra lót lá chuối cho nằm, nhà có người chết thì giã gạo để hàng xóm nghe mà chạy đến cứu giúp, trai gái cưới nhau trước hết lấy muối làm lễ hỏi, vì thời đó chưa có sự tích trầu cau.

*****

Người Việt Nam từ xưa nay vẫn luôn tự hào nói rằng mình là “con Rồng cháu Tiên”. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết nguồn gốc của câu nói này cũng như nguồn cội cao quý của bản thân mình. Nhất là ngày nay, thời đại mà thuyết vô Thần tràn ngập, đầu độc tâm trí người ta, thì câu nói đó lại càng trở nên bị quên lãng.

Tuy nhiên, với những ghi chép và câu chuyện lưu truyền trong dân gian, có thể khẳng định rằng, “Con Rồng cháu Tiên” không chỉ là một câu nói hình tượng. Đây là câu nói khiến mỗi người dân đất Việt chúng ta tự hào về nguồn cội cao quý của mình.

Bảo An (t/h)