Đội tuyển U23 Việt Nam được lọt vào vòng chung kết giải bóng đá vô địch U23 Châu Á đối với đa số người Việt Nam là một niềm vui, niềm tự hào khôn tả. Để cắt nghĩa nguồn gốc “cảm xúc” đó, hãy cùng tham khảo nghiên cứu của một giáo sư Na Uy dưới đây.
Sự đồng nhất giữa quốc gia và đội tuyển quốc gia
Mỗi lần đội tuyển Việt Nam thắng trận, các báo sẽ giật tít: “Đêm không ngủ với khát vọng Việt Nam”, “Cơn địa chấn mang tên Việt Nam”, “Báo Trung Quốc: Tiền không mua được thành công như Việt Nam”, v.v.
Ở đây, ta thấy hình ảnh đội bóng được đồng nhất với hình ảnh quốc gia, được các trang thông tin hào phóng sử dụng để nâng cấp lòng tự hào thể thao thành lòng tự hào dân tộc.
Chiến thắng không dừng ở bóng đá nữa mà là chiến thắng của dân tộc. Cú sút không phải là một đường bóng nữa là là “cuộc tấn công”. Chiến thắng không còn là trạng thái nữa, mà phải là “địa chấn”. Những cuộc “đi bão” cũng được “nới tay” cho người dân thể hiện tình cảm nồng nhiệt, thả cửa chạy xe không kiểm soát tốc độ, không cần đội nón bảo hiểm, tụ tập đám đông không bị ai cản. Và ở đâu đó, các yếu tố khác như quốc kỳ, quốc ca, ca khúc kháng chiến… được tận dụng để nâng cao cảm giác tự hào này.
Rõ ràng là hiếm khi nào có dịp để hàng ngàn người cùng tập trung vào chủ đề là quốc gia, dân tộc trong 90 phút liên tiếp, để rồi sau đó, họ có thể hát quốc ca đến khản cổ trên sân vận động, cầm cờ tổ quốc chạy khắp thành phố, trèo lên nóc xe công nông vẫy cờ, đứng lên xe máy tung cờ cũng không ai than phiền. Cho dù trận đấu có là thắng hay thua, sự chia sẻ, đồng cảm, cùng suy nghĩ và giải thích một sự kiện mà màu cờ sắc áo là tín hiệu duy nhất, thì nó cũng góp phần định danh cộng đồng người đó – ở đây là lòng tự hào dân tộc, quốc gia.
Lá cờ là hình ảnh biểu tượng điển hình trong cách thể hiện lòng tự hào dân tộc với thể thao. Nhà xã hội học Michael Billig, khi quan sát cách người Anh giương cờ ở khắp nơi trước một trận chung kết thể thao nào đó, giải thích: “Lá cờ tung bay tuyệt đẹp. Chúng ta không chỉ tự ca ngợi mình một cách phô trương, đầy thể hiện, giương cao rồi hạ thấp lá cờ biểu tượng. Sự ăn mừng thể hiện: sự kiện này là đáng nhớ, như thể đáng nhớ là một tính chất khách quan. Ký ức tập thể điển hình – ‘ký ức của chúng ta’ đã bị hòa vào một ký ức phổ quát chung. Mọi người, hay tất cả những người có nhận thức, đều sẽ nhớ sự bất khả chiến bại của nước Anh”.
“Sự tương đồng giữa thể thao và chiến tranh khá rõ ràng, nhưng rất khó để xác định chính xác tính chất của kết nối này. Ban đầu, có vẻ như thể thao là sự tái hiện nhẹ nhàng của chiến tranh. Quá dễ dàng để nhìn các đội thể thao quốc tế như một biểu trưng của thời chiến. Ở những quốc gia từng thực sự có chiến tranh, giờ đây họ để nguồn năng lượng hung hãn của mình thăng hoa thành những cuộc đấu đầy uy lực trên sân thể thao”, Michael Billig nhận định.
Nó khá giống với cách Trung Quốc làm ở Olympics 2012 khi các vận động viên thể hiện hình ảnh tự hào, mặc trang phục truyền thống khi chiến thắng, hoặc cách người Anh, người Scotland, người Ireland hát quốc ca, mang theo trang phục biểu tượng, nhạc cụ dân tộc và sử dụng các cách biểu đạt tiếng lóng riêng trên truyền thông trong các giải thể thao lớn mà họ tham dự.
Và nếu như đội nhà giành chiến thắng, cảm xúc gắn bó, tích cực đồng nhất với hình ảnh chung của dân tộc cũng được nhân lên nhiều lần, mà không cần dụng công nhiều lắm từ chính trị gia hay nhà nước.
Lòng tự hào dân tộc có liên quan tới sự giàu có hay học vị?
Để “đo” xem lòng tự hào dân tộc có tương tác ra sao với một quốc gia, ta hãy xem xét một nghiên cứu của Ørnulf Seippel, giáo sư Trường Thể thao học Nauy, mang tên “Sports and Nationalism in a Globalized World” (Thể thao và chủ nghĩa dân tộc trong một thế giới toàn cầu hóa) đăng trên Tạp chí Quốc tế về Xã Hội Học năm 2017.
Nghiên cứu này dựa trên dữ liệu thu thập được trong thời kỳ 2006 – 2008 ở 25 quốc gia, từ nước nghèo tới nước giàu, từ phương Đông tới phương Tây để hiểu vai trò của thể thao trên bảng “nhiệt kế” chủ nghĩa dân tộc ở nhiều quốc gia.
Câu hỏi được đặt ra cho người tham gia khảo sát là: “Bạn tự hào ra sao khi [quốc gia bạn] có thành tích tốt tại giải thể thao quốc tế hoặc các cuộc tranh tài thể thao?”
Câu trả lời được chia thành: “rất tự hào, “khá tự hào”, “không tự hào gì lắm”, “không tự hào gì cả”, và “không thể chọn được”.
Kết quả thu được cho thấy lòng tự hào dân tộc trong thể thao là một hiện tượng phổ biến, và rất nhiều người cảm thấy tự hào khi các vận động viên nước họ chiến thắng. Tuy nhiên, sự khác biệt về mức độ tự hào khác nhau khá xa giữa các quốc gia, đi kèm với một số yếu tố khác trong đời sống xã hội.
Trình độ giáo dục và văn hóa có tỷ lệ nghịch với chủ nghĩa dân tộc trong thể thao. Những quốc gia như Thụy Sĩ, Nhật Bản, lòng tự hào dân tộc do thể thao tạo ra thường không cao, và sự tự hào này còn giảm xuống ở nhóm người người có học vị cao hơn. Tuy nhiên, với những quốc gia như Philippines, tỷ lệ tự hào dân tộc lại rất cao vì học vị thấp hơn.
Tương tự như giáo dục, mức thu nhập nhìn chung tỷ lệ nghịch với lòng tự hào dân tộc trong thể thao. Những nước có thu nhập cao hơn ít có xu hướng tự hào dân tộc hơn so với những nước có thu nhập thấp hơn. Trong cùng một quốc gia, những người có thu nhập cao hơn cũng thường ít có xu hướng tự hào dân tộc hơn những người có thu nhập thấp hơn.
Tuy nhiên, tác động của thu nhập tới niềm tự hào thể thao ở những nước giàu hơn thì thấp hơn ở những nước nghèo hơn. Hiểu nôm na là, lòng tự hào thể thao giữa một người giàu và một người nghèo ở một nước giàu (như Nauy, Pháp) thường không khác nhau là bao, nhưng ở các nước nghèo hơn (như Philippines) thì sự khác biệt này là lớn hơn.
Tổng kết một cách thận trọng, tác giả nghiên cứu nhận thấy chủ nghĩa dân tộc trong thể thao dường như có liên hệ với các yếu tố kinh tế và văn hoá. Về tổng thể, những quốc gia với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) càng thấp, mức độ dân chủ và toàn cầu hóa về văn hóa càng thấp thì lòng tự hào dân tộc dựa trên thể thao càng cao.
Qua tổng thể nghiên cứu, quốc gia/khu vực có lòng tự hào dân tộc trong thể thao thấp hơn là các quốc gia Tây Âu (trong nghiên cứu gồm có Thụy Sĩ, Phần Lan, Na Uy, Flanders và Pháp), trong khi những quốc gia Đông Âu (Ba Lan, Croatia, Nga, Latvia, và Slovenia) có lòng tự hào dân tộc gắn với thể thao cao hơn.
Nhóm quốc gia nghèo nhất trong khảo sát gồm có Cộng hòa Dominica, Nam Phi và Philippines là những quốc gia tự hào hàng đầu về thể thao. Ở Châu Á, Hàn Quốc là một quốc gia khá sùng bái tinh thần dân tộc trong thể thao, trong khi ở Nhật Bản và Israel, tinh thần này chỉ ở mức dưới trung bình.
Thể thao là một nghi thức hiệu quả để quảng cáo hình ảnh tích cực đến người dân. Nếu một quốc gia tuy nghèo, gặp nhiều vấn đề, nhưng đội nhà thi đấu thể thao trên trường quốc tế tốt, những bình luận tích cực, lời khen tặng sẽ khiến hình ảnh của chính phủ đó tốt đẹp hơn trong mắt người dân. Và người dân có vẻ dễ dàng tha thứ cho những điểm xấu mà họ cau mày phê phán trước đó…
Cần lưu ý rằng, nghiên cứu này có những hạn chế nhất định về dữ liệu vốn có thể ảnh hưởng tới nhận định của tác giả. Dữ liệu tác giả dựa vào để nghiên cứu chỉ được thu thập ở 25 quốc gia, mỗi quốc gia từ 1.000 đến 1.400 người tham gia trả lời. Dữ liệu cũng chưa giúp phân biệt đâu là chủ nghĩa dân tộc dựa trên các giá trị dân sự (civil nationalism) và đâu là chủ nghĩa dân tộc dựa trên sắc tộc (ethnic nationalism), vốn được cho là yếu tố chính định hình sự khác biệt giữa chủ nghĩa dân tộc ở phương Đông và phương Tây, và cần nghiên cứu thêm.
Theo Luatkhoa