Chùa mục đồng là những ngôi chùa quen thuộc trong tâm thức người dân Nam Bộ. Tương truyền rằng, những đứa trẻ mục đồng đã tạo tác nên những pho tượng Phật, và điều kỳ lạ là những tượng Phật này không chìm dưới nước.
Theo quan niệm phổ biến ở Nam bộ thì mục đồng là con cháu của Thần Nông, theo đó các thế lực siêu nhiên như ma quỉ, cô hồn đều phải kiêng dè và tuân phục. Do vậy, trẻ mục đồng được quyền hưởng các lễ vật cúng, kể cả lễ vật cúng cô hồn. Tục truyền, trẻ mục đồng ngoắc tay vẫy thì tức khắc các bè chở lễ vật cúng cô hồn cập vô bờ. Cũng do mục đồng là con cháu của Thần Nông nên chúng có khả năng liên thông với cõi thiêng, cảnh giới bên trên và bên ngoài trần thế.
Mục đồng thỉ tạo kim lưu tích;
Ông Trí tiên tu hậu hữu danh.
Cặp câu đối khắc trên hai trụ cổng chùa Long Phước (xã An Đức, Ba Tri, Bến Tre) đã chỉ ra đây vốn là ngôi chùa do mục đồng khởi tạo và sau đó, người trụ trì đầu tiên là nhà sư Minh Trí.
Hiện tại có khoảng hơn 40 ngôi chùa mục đồng nằm rải rác khắp các địa phương ở Nam Bộ.
Sự tích về những ngôi chùa mục đồng
Chùa mục đồng có thể hiểu là ngôi chùa làng, thuộc cơ cấu của thiết chế văn hóa thôn, làng thời trước, gồm “đình – chùa – miếu – võ”. Có thể hiểu, đây là ngôi chùa thờ Phật nho nhỏ mà dân làng tự ý lập nên để tự giải quyết nhu cầu tín ngưỡng của cộng đồng. Ở đó, thờ thần, Phật và Phật được thờ tự theo tâm thức của Phật giáo dân gian hơn là để tu học giáo nghĩa đích thực của Phật pháp. Đa phần là tồn tại như một ngôi chùa làng, nằm trong cái không gian văn hóa làng xã: đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt…
Ở chùa An Phước (tức là chùa mục đồng Hóc Tra ở An Bình Tây, Ba Tri, Bến Tre) – cách chùa Long Phước nói trên vài cây số, người ta kể rằng: Thoạt tiên đám mục đồng hay tụ tập chơi: nặn các tượng Thần tượng Phật và lập một cái am lá để thờ các cốt tượng dưới chòm cây tra gần một hóc nước. Do vậy, chùa có tên là “chùa Hóc Tra”. Di tích còn lại là pho tượng Bồ Tát cưỡi cọp vàng và tượng một ông Địa có tình tướng y hệt ông Địa múa lân. Cả hai đều đạt trình độ tạo hình mà khó có thể nói là do đám chăn trâu bình thường có thể tạo tác được.
Ở chùa Da Lươn (tên chữ Thiên Trường tự ở Đồng Sơn, Gò Công) lại có truyền thuyết tường tận hơn về lịch sử ngôi chùa như sau:
Thuở xưa, bọn mục đồng bày trò nặn tượng thần, Phật bằng đất sét chơi. Chơi chán lại đem tượng thả xuống ao cho Phật tắm mát! Lạ thay các tượng ấy lại nổi lên. Bọn trẻ hốt hoảng vớt các tượng lên để một nơi và che một am tranh để thờ.
Sau đó, có một nhà sư từ xa đến, thấy cảnh chùa đơn sơ hiu quạnh bèn phát tâm ở lại tôn tạo chùa. Ngày qua, tháng lại, vị thiền sư một thân một mình khai phá dần rừng cây chà là ở đầm Bà Dơn để dọn một chỗ đất lập thành chùa. Người dân không biết danh tính của ông, chỉ thấy ông suốt ngày phơi tấm lưng trần sạm nắng như da lươn nên gọi ông là thầy Da Lươn và ngôi chùa đó cũng có tên là chùa Da Lươn. Sau nhiều lần trùng tu, chùa đổi tên là Thiên Trường tự.
Chùa Phật Nổi (Phước Lâm tự) ở ấp Ràng, xã Trung Lập Hạ (Củ Chi, TP.HCM) được thành lập cách đây 200 năm cũng là một ngôi chùa mục đồng.
Tục truyền lúc đó, ông Phan Sử (Thiện Sử – Như Thành) cùng bè bạn trong xóm, nhân một hôm thả trâu vào rừng, bày trò lặn xuống bàu Đất Sét để lấy đất nặn tượng Phật chơi. Hết ngày, bọn trẻ lùa trâu về nhà, bỏ các tượng Phật giữa rừng.
Đêm đó bọn trẻ phát sốt và nói nhảm liên hồi. Sau khi gạn hỏi, cha mẹ bọn trẻ biết chuyện, bèn cùng nhau tính chuyện lập chùa thờ các tượng ấy, để gọi là chuộc tội với Phật! Thế nhưng trưởng làng làng không chấp thuận việc lập chùa vì cho đó là lý do dị đoan. Để làm rõ mọi việc, hương chức đem các tượng Phật đất sét đó gác trên chiếc cầu khỉ bắc ngang qua bàu Đất Sét và rút cầu. Tục truyền, trong số các tượng rơi xuống thì có 8 tượng Phật nổi trên mặt nước.
Thế là dân làng xúm nhau, kẻ có công, người có của, dựng ngôi chùa lá để thờ các tượng Phật đó.
Nói chung truyền thuyết về các nguyên nhân khởi phát của các ngôi chùa mục đồng mỗi nơi mỗi khác. Nhưng tất cả đều được hình thành trên mẫu đề duy nhất: Trẻ chăn trâu nặn tượng đất sét và các tượng ấy khi thả xuống nước đều nổi.
Tạo tác Phật tượng và tiềm thức tâm linh
Đặc trưng cơ bản của Phật tượng mục đồng là sự thô phác và hồn nhiên. Nói cách khác, chúng được tạo tác không theo quy phạm tạo hình, không hề biết đến các nghi quy về đồ tượng học Phật giáo: quý tướng, tọa thức, ấn quyết, pháp phục… Chúng được tạo tác bằng thủ pháp riêng, chủ quan theo căn cơ của người tạo tác. Chúng hình thành như thể là vô tâm, vô chấp… Tác phẩm được tạo nên là tình là ý của người tạo tác mà không là dụng công, dụng trí của thợ điêu khắc chuyên nghiệp.
Và cũng chính điều này đã làm nên sự độc đáo của từng Phật tượng. Những bức tượng này chủ vào hình khối, dừng lại ở mực tạo dáng, không quá chăm chú vào chi tiết; cái chú trọng ấy là thần khí, sắc thái tâm linh.
Do đó, về mặt tạo hình, chúng ta thấy tính giản lược một cách biểu cảm và những mảng khối thô phác là đặc điểm của tượng mục đồng. Lấy tập họp Phật tượng mục đồng ở chùa Thanh Sơn (Hóc Môn, TP.HCM) làm ví dụ, những bức tượng này giản lược đến mức là nếu căn cứ vào các đặc điểm của hình tướng, tọa thức, ấn quyết thì khó mà định dạng được chính xác cho từng tượng: tất thảy đều ngồi theo thức tọa thiền và tay kết định ấn.
Ngoài hình tướng chung, các chi tiết tạo hình khác cũng được lưu tâm như tư thế tọa thiền. Chẳng hạn tượng Phật tọa thiền ở chùa Linh Châu (Tân Tây, Gò Công), tuy đã bị hư hỏng nhiều nhưng vẫn toát lên vẻ an định và từ bi của Đức Phật.
Những Phật tượng này tuy không bị câu chấp vào các nguyên tắc đồ tượng học, nhưng trong lòng người tạo tác đã tiềm ẩn một cổ mẫu Phật tượng – một tâm ảnh về Phật, để từ đó mà phát tâm tạo tượng. Nói cách khác, Phật giáo nói chung, Phật tượng nói riêng, trải qua lịch sử đã trở thành văn hóa của dân tộc, cũng thể hiện khát khao tâm linh, một nhu cầu về văn hóa – tinh thần: Họ moi đất sét để nặn thành Phật tượng và lập một ngôi chùa lá để thờ Phật.
Có thể thấy, Phật tượng mục đồng ra đời trong tâm thức đa thần luận với đặc điểm thô phác, có nhiều điểm tương đồng với nghệ thuật hồng hoang mà chúng ta có thể bắt gặp ở những khám phá khảo cổ học thời sơ sử.
Bảo An tổng hợp