Khi gió chướng thổi mạnh, mưa dần ngớt hạn, miền Tây Nam bộ bắt đầu chuyển sang mùa nắng. Lúa trên đồng cũng đã bắt đầu ngậm sữa. Nước trên ruộng bắt đầu cạn nhanh do chảy theo các lổ mội xuống sông, rạch, ao đìa. Theo đó, cá cũng bắt đầu quay trở lại sông rạch để sinh sống qua mùa khô.
Khuya, sương xuống, cá cũng bắt đầu tìm đường đi, nghe mùi sình và hơi nước chúng sẽ hướng đến … và lọt vô hầm. Thành hầm cao nên chúng khó lòng phóng thoát khỏi. Con này lọt vô hầm quậy động, còn khác nghe tiếng “rọt rẹt” lại tìm đến và cũng… lọt hầm. Chừng nửa đêm ngủ giật mình thức dậy thì chong đèn đi thăm. Nhiều khi quên thì để tới sáng cũng được. Có điều cá vô nhiều, có những con lớn chúng có thể nhảy thoát. Bắt cá xong, vét lại miệng hầm, nếu có nước vô thì tát cạn rồi chờ cho cá nhảy tiếp, … Một hầm có thể bắt cá tới năm ba ngày như chơi! Một nét đẹp văn hóa thời tự túc tự cấp còn lưu lại là người ta chỉ đi thăm hầm của mình, ít ai đến hầm người khác bắt trộm làm gì. Nhiều khi thấy hầm của người hàng xóm đào do non kinh nghiệm nên cá không nhảy, người được nhiều còn đem cho mấy con ăn lấy thảo nữa! Có lẽ những con cá lóc, cá rô vừa ăn no nhụy lúa nên chúng vừa mập, vừa béo. Bắt con cá lóc nhảy đem nướng trui rồi ngắt miếng lá chuối để lên, banh cá ra, thịt trắng phau như bông bưởi, khói nóng bốc lên thơm phức, kèm với ít đọt rau rừng hái cạnh mé vườn, bờ ruộng, chấm muối ớt hoặc nước mắm chanh ớt, ăn không có gì ngon bằng. Mùi bùn của ruộng cạn dường như đã thấm vào da thịt cá. Nên cá nhảy hầm mà đem nướng trui vừa ngọt vừa đậm đà hương vị đặc trưng miền quê, ai đã từng thưởng thức thì thật khó lòng quên được. Tiếc là ngày nay, đống lúa thâm canh tăng vụ. Quanh năm nước ngập đồng hết hè thu người ta làm ngay vụ đông xuân, không còn cảnh làm mỗi năm một vụ lúa mùa như ngày trước, nên nét sinh hoạt văn hóa đào hầm chờ cá nhảy cũng đã dần lùi vào dĩ vãng.
Tổng hợp