Từ xưa đến nay, trong lời nói của người Trung Quốc, thường có những câu cảm thán như: “Ôi trời ơi!”, “Ông trời có mắt!”, “Ở trên có trời xanh!”, “Thề với trời”, mọi người ngẩng đầu lên nhìn trời rồi thầm niệm với mong muốn được ông trời phù hộ. Khi gặp phải khổ nạn, họ cầu trời cho tai qua nạn khỏi, khi mưa thuận gió hòa cũng làm lễ tạ ơn trời.
Quan niệm sống nương tựa vào trời, thuận theo trời đã khắc sâu vào tâm trí của mỗi người, và kết quả họ nhận được cũng vô cùng thần bí huyền diệu. Vậy thì việc sùng bái trời bắt đầu từ khi nào? Tại sao các đế vương trong lịch sử lại làm các nghi lễ cúng tế trời?
Khởi nguồn của việc cúng tế trời
Trong “Đạo đức kinh giản lược” có viết: “Thường ngôn thiên, tề cứu hà dã? Hạo viết: Vô đề, vị tri thiên dã, không không khoáng khoáng diệc thiên”, nghĩa là thường nói đến trời, nhưng hỏi trời là gì? Thái Hạo Phục Hy nói không có lời nào có thể giải thích chính xác, điều chúng ta không biết là trời, không gian mênh mông rộng lớn cũng là trời.
Cách giải thích về trời này là tương đồng với cách giải thích về trời trong Giáp Cốt văn và Kim Văn của các chuyên gia hiện nay. Chữ trời “天” trong Giáp Cốt văn và Kim Văn là một người nhỏ bé có phần đầu được làm cho nổi bật, chữ người là “人”, chữ đầu là “头”, chữ trời “天” có một gạch ngang lớn đặt trên đầu người nghĩa là chí cao vô thượng con người không thể đạt tới được.
Trong “Thuyết văn giải tự” cũng có giải thích tương tự là: Trời là to lớn, vô xuất hữu kỳ. Những giải thích về trời từ xưa đến nay đều cho thấy rằng, trời có quyền uy được con người kính trọng và sùng bái, người cổ đại đều tin rằng trời là hóa thân của thần linh, hướng lên trời cầu nguyện có thể sẽ nhận được hồi ứng, cúng trời đất là vì có thể nhận được sự phù hộ che chở nhiều hơn.
Tại sao phải cúng tế trời?
Các tài liệu lịch sử có ghi chép lại rằng, hoạt động thờ cúng trời đất của Trung Quốc có thể bắt đầu từ thời xã hội chiếm hữu nô lệ, triều đại nhà Hạ vào khoảng thế kỷ 21 – 22 trước Công Nguyên.
Đế vương các triều đại tự xưng mình là “Thiên tử” tức là con của trời, thuận theo ý trời mà hành xử. Họ cho rằng, mình có thể thống trị quốc gia là quyền lực được thiên thượng ban cho. Cho nên, lúc đăng ngôi họ phải cúng báo trời đất, để biểu thị rằng, mình đã nhận lệnh từ trời, chỉ có như vậy, giang sơn mới có thể được giữ vững. Trong suốt quá trình trị vì, các hoàng đế còn các lần cúng tế khác, chủ yếu là cầu cho nước thái dân an, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Ở Bắc Kinh, có một địa điểm các hoàng đế thời xưa dùng làm nơi để cúng tế trời, cội nguồn nơi đây có liên quan đến Minh Thành Tổ Chu Lệ.
Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương qua đời, Yến Vương Chu Lệ cử binh xuống phía nam, mất bốn năm để đoạt đế vị. Tuy nhiên, do bị trong ngoài triều đình chỉ trích, Chu Lệ như ngồi trên đống lửa, vì vậy ông phái người thăm dò đi quan sát phong thủy, và lập một ngôi miếu dùng để cúng tế trời lấy tên là Thiên Đàn.
Sau khi ngôi miếu được xây xong, Chu Lệ tự mình tổ chức nghi lễ cúng tế trời vô cùng long trọng. Buổi lễ cúng trời này nhằm thông cáo Chu Lệ lên ngôi, điều này tựa như là đã nhận được sự phê chuẩn của trời, nói cách khác, không quan tâm Chu Lệ đoạt được ngôi vị hoàng đế như thế nào, sau nghi lễ cúng trời thì tức là đã nhận được sự cho phép của trời, ngôi vị hoàng đế của Chu Lệ xem như đã đạt vững chắc, và chính thức chuyển kinh đô đến Bắc Kinh.
Sau này, vào thời vua Gia Tĩnh, ông đã cho tu sửa miếu Thiên Đàn. Từ đó phía nam đại tự điện của miếu xuất hiện một bàn thờ hình tròn chuyên dùng để cúng tế trời, và gọi bàn thờ này là Viên Khâu, cái tên này được sử dụng tới ngày hôm nay. Bốn phía của Viên Khâu được bao quanh bởi tường kép, vòng ngoài là hình vuông, vòng trong là hình tròn, ngụ ý là trời tròn đất vuông, kiến trúc này phản ánh vũ trụ quan – thiên nhân hợp nhất của người Trung Quốc.
Theo thời gian, miếu Thiên Đàn cũng được sửa sang nên có nhiều thay đổi. Đại tự điện ban đầu đã bị dỡ bỏ và xây lại mới một vài cung điện. Tuy nhiên, mục đích sử dụng miếu Thiên Đàn để cúng tế trời của các hoàng đế thì từ xưa đến nay vẫn giữ nguyên, điều này cho thấy rằng các hoàng đế thời xưa vô cùng coi trọng việc cúng tế trời.
Lịch sử có ghi chép lại rằng vua Càn Long trong 60 tại vị của mình đã đi miếu Thiên Đàn cúng tế trời 59 lần, khi Càn Long 70 tuổi, đến lúc cần phải đi đến Thiên Đàn, vì cân nhắc đến việc hoàng đế tuổi tác đã cao, nên một đại thần đã kiến nghị mở một cửa nhỏ ở phía tây Hoàng Can Điện của miếu để làm ngắn đoạn đường đi bộ lại. Vua Càn Long đã đồng ý, nhưng lại lo lắng con cháu đời sau đi lối này sẽ sinh ra lười biếng, vô lễ nên đã hạ chiếu: Chỉ ai thọ tới 70 tuổi mới được đi lối này, đây chính là lý do vì sao mà tên gọi của cửa này là “Thất tuần cửa”. Tuy nhiên, sau này các hoàng đế triều đại nhà Thanh đều không thọ, nên trên thực tế chỉ có một mình Càn Long đi mà thôi.
Mặc dù nghi lễ cúng tế trời rất ít gặp trong cuộc sống ngày nay, nhưng tập tục đến chùa, miếu cầu vào mỗi dịp tết thì vẫn được lưu truyền lại. Không thể phủ nhận rằng, đây là một cách hướng tới cuộc sống mỹ hảo của mọi người.
Lê Hiếu, dịch từ kannewyork.com