Những câu nói “sấm truyền” của Khổng Minh
Dự ngôn «Mã Tiền Khóa>>> (马前课) là do Thừa tướng Gia Cát Lượng nhà Thục Hán thời Tam Quốc sáng tác. Nhắc đến Gia Cát Lượng, có thể nói là nhà nhà đều biết, nhưng không nhiều người biết về «Mã Tiền Khóa».
Những lời “Sấm truyền” nổi tiếng của Gia Cát Lượng
Giới thiệu: Dự ngôn «Mã Tiền Khóa>>> (马前课) là do Thừa tướng Gia Cát Lượng nhà Thục Hán thời Tam Quốc sáng tác. Nhắc đến Gia Cát Lượng, có thể nói là nhà nhà đều biết, nhưng không nhiều người biết về «Mã Tiền Khóa». Tương truyền Gia Cát Lượng vào lúc nhàn hạ trong quân đã sáng tác «Mã Tiền Khóa>>> (tên «Mã Tiền Khóa>>> có nghĩa là “quẻ bói gieo trước ngựa”). «Mã Tiền Khóa>>> ngắn gọn súc tích phi thường, chỉ có 14 khóa, mỗi khóa dự ngôn một thời đại lịch sử, mà mỗi một khóa lại tuân theo một trật tự sắp xếp. Khi mỗi thời đại lịch sử qua đi rồi, người ta quay lại xem mới thấy Gia Cát Lượng dự ngôn chuẩn xác đến phi thường.
Liệu sự như thần
Tài năng của Khổng Minh đâu chỉ dừng ở những lĩnh vực ấy. Với người Trung Quốc, Gia Cát Lượng còn là nhà tiên tri vô cùng vĩ đại. Ông được mệnh danh là người “trên thông thiên văn, dưới tường địa lý”, có tài tiên đoán mọi việc cực chuẩn xác.
Nói về kỳ tài “liệu sự như thần” của Khổng Minh, dân gian Trung Quốc hãy còn lưu truyền một câu chuyện khá thú vị.
Tương truyền, trước lúc lâm chung, Gia Cát Lượng dặn dò con cháu: “Sau khi ta chết, trong số các con sẽ gặp phải đại họa chết người. Tới lúc ấy, hãy dỡ nhà, lấy từ trong tường ra một bọc giấy, trong đó có cách cứu mạng”. Sau khi ông qua đời, Tư Mã Viêm lên ngôi hoàng đế. Nghe tin trong số quan quân triều đình có viên tướng quân là hậu thế của Gia Cát Lượng, Viêm bèn nghĩ cách trừng trị người này.
Một hôm, Tư Mã Viêm tìm cớ định tội chết cho viên tướng nhà Gia Cát. Trên Kim điện, Viêm cất lời hỏi: “Trước khi chết, tổ phụ nhà ngươi đã nói những gì?”. Kẻ “tội đồ” bèn thật thà truyền đạt tới vua lời dặn dò của Gia Cát Lượng. Nghe thấy vậy, Tư Mã Viêm bèn ra lệnh cho quân lính dỡ nhà, lấy bọc giấy ra xem. Bên trong chỉ có một phong thư kín, phía trên viết rằng: “Ngộ hoàng nhi khai” (nghĩa là đúng hoàng thượng mới mở ra xem). Đám binh sĩ bèn dâng thư lên vua. Trong thư có mấy chữ: “Xin lùi ba bước”. Tư Mã Viêm lập tức làm theo. Vừa đứng vững đã nghe thấy một tiếng “rầm”, chiếc xà rơi thẳng xuống chỗ vua ngồi, khiến bàn ghế tan tành. Viêm trông thấy vậy mà sợ hãi lạnh người, rồi lại xem tiếp những dòng ở cuối thư: “Ta cứu mạng ngươi, ngươi hãy giữ lại mạng sống của con cháu ta”. Xem xong thư, Tư Mã Viêm thầm thán phục tài tiên đoán như thần của Gia Cát Khổng Minh rồi ra lệnh phục nguyên chức cho vị tướng quân này.
Còn theo Bách Khoa toàn thư mở, Khổng Minh bỗng lâm bệnh nặng khi ra Kỳ Sơn lần thứ 6. Biết mệnh sắp tàn, ông cho gọi tướng tài Khương Duy vào truyền thụ 24 thiên binh thư của mình. Gia Cát Lượng còn cẩn thận dặn dò các tướng quân phải nêu cao cảnh giác, đề phòng mối nguy quân Ngụy tấn công, Ngụy Diên trở mặt làm phản rồi bày cho diệu kế đối phó.
Quả nhiên, mọi lo lắng, tiên liệu của ông trước khi qua đời đều thành hiện thực. Ngụy Diên tráo trở làm phản, nhưng vì nghe lời căn dặn của quân sư, Mã Đại đã chém chết Diên.
Lại nói, khi Tư Mã Ý hô quân tới đánh, bên Thục bèn đẩy xe có tượng gỗ của Khổng Minh ra trận, khiến Ý hoang mang lo sợ rồi tháo chạy. Nhờ đó, quân Thục bình an vô sự rút về Thành Đô.
Thêm lần nữa, tài tiên liệu hơn người của Gia Cát Lượng đã bảo toàn mạng sống cho quân binh và cứu vãn thế sự cho cả vương triều. Để tưởng nhớ công lao to lớn của ông, dân gian lưu truyền câu nói: “Gia Cát chết vẫn đuổi được Trọng Đạt sống”.
Bí ẩn những lời “sấm truyền” trong “Tiền Mã Khóa”
Sau đây là phần giải nghĩa:
Khóa 1 ○●●●●○ Trung Hạ
Vô lực hồi thiên
Cúc cung tận tụy
Âm cư Dương phất
Bát thiên nữ quỷ
Tạm dịch:
Không sức đổi Trời
Còng mình gắng sức
Âm tồn Dương phất
Tám ngàn nữ quỷ
Giải: “Vô lực hồi thiên, Cúc cung tận tụy” là nói bản thân Gia Cát Lượng, như ông viết trong «Xuất sư biểu»: “Thần cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi“. “Âm cư Dương phất” chỉ hoạn quan Hoàng Hạo loạn quyền, Khương Duy chỉ có thể duy trì tàn cục chứ không thể làm gì được. “Bát thiên nữ quỷ” (八千女鬼) chính là chữ “Ngụy” (魏), chỉ nước Ngụy diệt Thục Hán.
Khóa 2 ○●○○●○ Trung Hạ
Hỏa thượng hữu hỏa
Quang chúc Trung Thổ
Xưng danh bất chính
Giang Đông hữu hổ
Tạm dịch:
Trên lửa có lửa
Rọi sáng Trung Thổ
Xưng danh bất chính
Giang Đông có hổ
Giải: “Hỏa thượng hữu hỏa”, trên “hỏa” (火) có “hỏa” (火) chính là chữ “Viêm” (炎). Chỉ Tư Mã Viêm lập nên triều Tấn. “Xưng danh bất chính” chỉ triều Tấn của Tư Mã Viêm thực chất là soán ngôi Tào Ngụy mà kiến lập, mà Tào Ngụy lại là soán ngôi triều Hán mà kiến lập, danh không chính ngôn không thuận. “Giang Đông hữu hổ” chỉ Đông Tấn thành lập, đóng đô tại Kiến Khang thuộc Giang Đông. “Hổ” chỉ Tư Mã Duệ.
Khóa 3 ○●●●●● Hạ Hạ
Nhiễu nhiễu Trung Nguyên
Sơn hà vô chủ
Nhị tam kỳ vị
Dương chung mã thủy
Tạm dịch:
Nhiễu loạn Trung Nguyên
Non sông không chủ
Hai ba vị ấy
Dê cùng ngựa chạy
Giải: “Nhiễu nhiễu Trung Nguyên, Sơn hà vô chủ” miêu tả Trung Quốc vào thời loạn bát vương, ngũ hồ thập lục quốc và thời đại Nam-Bắc triều. “Nhị tam kỳ vị” (Hai ba vị ấy) chỉ một số Đế vương chỉ tại vị trong một thời gian rất ngắn. “Dương chung mã thủy” (Dê cùng ngựa chạy) chỉ đại loạn khởi từ gia tộc nhà Tư “Mã” {ngựa}, kết thúc là “Dương” Kiên kiến lập triều Tùy. Họ “Dương” (杨) với chữ “dương” {dê} (羊) là đồng âm.
Khóa 4 ●●○●○● Trung Thượng
Thập bát nam nhi
Khởi vu Thái Nguyên
Động tắc đắc giải
Nhật nguyệt lệ thiên
Tạm dịch:
Mười tám nam nhi
Khởi từ Thái Nguyên
Động ắt được giải
Nhật nguyệt tươi đẹp
Giải: “Thập bát nam nhi” là “thập bát tử”, “thập bát tử” (十八子) hợp thành chữ “Lý” (李). Chỉ thời Tùy mạt, Lý Uyên khởi binh từ Thái Nguyên. “Động tắc đắc giải” ý nói Lý Uyên khởi binh là đường sinh, không phải đường tử. “Nhật nguyệt tươi đẹp” chỉ văn minh Đại Đường sáng lạn.
Khóa 5 ○○○●●● Hạ Trung
Ngũ thập niên trung
Kỳ số hữu bát
Tiểu nhân đạo trường
Sinh linh đồ độc
Tạm dịch:
Trong năm thập niên
Số ấy có tám
Tiểu nhân đường dài
Sinh linh tàn hại
Giải: 53 năm sau triều Đại Đường, Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu cùng xưng là “Ngũ Đại”. Thời “Ngũ Đại” tổng cộng có 8 họ người được xưng là Hoàng đế, ứng với “Số ấy có tám”. Thạch Kính Đường tự xưng là Hoàng đế với Khiết Đan, ứng với câu “Tiểu nhân đường dài”.
Khóa 6 ●○○●○○ Thượng Trung
Duy thiên sinh Thủy
Thuận thiên ứng nhân
Cương trung nhu ngoại
Thổ nãi sinh Kim
Tạm dịch:
Chỉ Trời sinh Thủy
Thuận Trời hợp người
Trong cứng ngoài mềm
Thổ ấy sinh Kim
Giải: Triều Tống thực hành nền chính trị nhân từ, thuộc tính “Thủy”. Thổ khắc Thủy, như vậy triều Kim sinh ra từ Thổ chính là khắc tinh của triều Tống. “Thổ nãi sinh Kim”, “Kim” chỉ nước Kim, kẻ thù không đội trời chung của triều Tống. Chính sách nội ngoại của triều Tống có thể dùng “trong cứng ngoài mềm” để hình dung.
Khóa 7 ●○●○○● Trung Trung
Nhất nguyên phục thủy
Dĩ cương xử trung
Ngũ ngũ tương truyền
Nhĩ Tây ngã Đông
Tạm dịch:
Một nguyên về đầu
Lấy cứng đặt giữa
Năm năm tương truyền
Ngươi Tây ta Đông
Giải: “Nhất nguyên phục thủy” (Một nguyên về đầu) chỉ triều Nguyên kiến lập. “Dĩ cương xử trung” (Lấy cứng đặt giữa) chỉ người Mông Cổ thống trị cực kỳ hà khắc với người Hán. “Ngũ ngũ tương truyền” là chỉ triều Nguyên tổng cộng có 10 (=5+5) vị Hoàng đế. “Nhĩ Tây ngã Đông” chính là nói người Mông Cổ phân thành các Hãn quốc.
Khóa 8 ○○●●●○ Thượng Thượng
Nhật nguyệt lệ thiên
Kỳ sắc nhược xích
Miên miên diên diên
Phàm thập lục diệp
Tạm dịch:
Nhật nguyệt tươi đẹp
Sắc ấy như đỏ
Kéo dài liên miên
Gồm mười sáu lá
Giải: “Nhật nguyệt tươi đẹp”, chữ “nhật” (日) ghép với chữ “nguyệt” (月) chính là chữ “Minh” (明), chỉ triều Minh. “Sắc ấy như đỏ”, đỏ là “chu”, chỉ họ “Chu” (朱). “Kéo dài liên miên, Gồm mười sáu lá”, ý nói triều Minh có tổng cộng 16 đời Hoàng đế.
Khóa 9 ○●○●●● Trung Thượng
Thủy nguyệt hữu chủ
Cổ nguyệt vi quân
Thập truyền tuyệt thống
Tương kính nhược tân
Tạm dịch:
Nước trăng có chủ
Trăng cổ làm vua
Truyền mười tuyệt sạch
Kính nhau như khách
Giải: “Thủy nguyệt hữu chủ”, ba điểm Thủy (氵) cộng thêm “nguyệt” (月) rồi thêm “chủ” (主) hợp thành một chữ “Thanh” (清). “Cổ nguyệt vi quân”, “cổ nguyệt” (古月) chính là chữ “Hồ” (胡), chỉ triều Thanh do người dân tộc thiểu số (Hồ nhân) kiến lập. “Thập truyền tuyệt thống” ý nói triều Thanh từ khi nhập quan truyền được 10 đời Hoàng đế, cuối cùng là Tuyên Thống. “Tương kính nhược tân” (Kính nhau như khách) là chính phủ Quốc Dân ưu đãi các thành viên vương tộc nhà Thanh.
Khóa 10 ●○●○●● Trung Hạ
Thỉ hậu ngưu tiền
Thiên nhân nhất khẩu
Ngũ nhị đảo trí
Bằng lai vô cữu
Tạm dịch:
Lợn sau trâu trước
Nghìn người một miệng
Năm hai đảo ngược
Bạn đến không trách
Giải: “Lợn sau trâu trước” là năm Tý 1912 (sau Hợi trước Sửu), Trung Hoa Dân Quốc thành lập. “Thiên nhân khẩu” (千人口) chính là chữ “hòa” (和), chỉ thực hành cộng hòa chế. “Ngũ nhị đảo trí”, “ngũ” là ngôi Vua (có câu “cửu ngũ chí tôn”), như vậy “Năm hai đảo ngược” ý là “dân chủ”. “Bằng lai vô cữu” là quái từ, chỉ tuy có xâm nhiễu mà cũng không ngại lắm (bị Nhật Bản xâm lược nhưng không ngại).
Khóa 11 ○●○○●○ Trung Hạ
Tứ môn sạ tích
Đột như kỳ lai
Thần kê nhất thanh
Kỳ đạo đại suy
Tạm dịch:
Bốn cửa mở toang
Thình lình đột ngột
Tiếng gà gáy sớm
Đạo này đại suy
Giải: “Bốn cửa mở toang” chính là chữ “cộng” (共), chỉ đảng cộng sản bất ngờ được thiên hạ, văn hóa truyền thống 5.000 năm bị phá hoại. “Tiếng gà gáy sớm, Đạo này đại suy”, chỉ năm Dậu {gà} 2005, «Cửu bình cộng sản đảng>>> phát hành, dân chúng đua nhau thoái đảng, thế đảng bắt đầu suy bại.
Khóa 12 ●○○○○● Thượng Trung
Chửng hoạn cứu nạn
Thị duy Thánh nhân
Dương phục nhi trị
Hối cực sinh minh
Tạm dịch:
Cứu họa cứu nạn
Duy có Thánh nhân
Dương phục mà trị
Đêm hết ngày rạng
Giải: “Cứu họa cứu nạn, Duy có Thánh nhân”. Thời kỳ mạt Pháp, giữa thời loạn thế, Pháp Luân Đại Pháp hồng truyền cứu người. “Dương phục mà trị, Đêm hết ngày rạng”, chỉ ngày 21 tháng 12 năm 2012 (ngày Đông chí), nghênh đón vạn vật canh tân, bắt đầu kỷ nguyên mới. Theo sách «Hoàng Cực kinh thế>>> của Thiệu Ung tiên sinh triều Tống, năm 2012 là quẻ “Phục” (Địa Lôi Phục). Còn “Hối cực sinh minh” (Đêm hết ngày rạng) chính là Đông chí trong 24 tiết khí, là ngày Âm cực đỉnh Dương mới sinh, vừa trùng khớp với ngày trong tiên tri của người Maya.
Khóa 13 ○●●○○○ Thượng Trung
Hiền bất di dã
Thiên hạ nhất gia
Vô danh vô đức
Quang diệu Trung Hoa
Tạm dịch:
Hiền không rơi mất
Thiên hạ một nhà
Không danh không đức
Chói lọi Trung Hoa
Giải: Đoạn này nói về thời kỳ chỉnh thể đạo đức nhân loại hồi thăng, mọi người toàn thế giới đối xử với nhau như người một nhà, là tượng thế giới đại đồng. Giống với Tượng 59 «Thôi Bối Đồ>>> (“Vô thành vô phủ, Vô nhĩ vô ngã, Thiên hạ nhất gia, Trị trăn đại hóa”).
Khóa 14 ○●○●○● Trung Hạ
Chiêm đắc thử khóa
Dịch số nãi chung
Tiền cổ hậu kim
Kỳ Đạo vô cùng
Tạm dịch:
Bói được quẻ này
Dịch số đã hết
Trước cũ sau mới
Đạo ấy vô cùng
Giải: Văn minh lần này kết thúc, kỷ nguyên mới bắt đầu. Giống với Tượng 60 «Thôi Bối Đồ>>> (“Nhất Âm nhất Dương, Vô chung vô thủy, Chung giả nhật chung, Thủy giả tự thủy”).
Ghi chú: Các dự ngôn khác cũng nói về quẻ “Phục” năm 2012.
«Mai Hoa Thi»: “Dục tướng Bác Phục vấn tiền nhân”: năm 2011 là quẻ “Bác”, năm 2012 chính là quẻ “Phục”.
«Bộ Hư Đại Sư dự ngôn thi»: “Thế vũ tam phân, Hữu Thánh nhân xuất, Huyền sắc kỳ quan, Long trương kỳ phục, Thiên địa phục minh, Xử trị vạn vật, Tứ hải âu ca, Ấm thụ kỳ phúc”.
«Thôi Bối Đồ», Tượng 1: “Chu nhi phục thủy”; «Thôi Bối Đồ>>> tổng cộng 60 Tượng, tuần hoàn một vòng theo lục thập giáp tử.
Theo tientri.net