Đảo Wrangel hầu như quanh năm đều bị bao phủ trong mùa đông lạnh giá, trừ những ngày hè ngắn ngủi. Đây là nơi sinh sống của những bầy thú hoang, luôn chực chờ cướp đi mạng sống của bất kỳ ai dám bén mảng đến gần. Thế nhưng vào đầu thế kỷ 20, một đoàn thám hiểm đã quyết tâm chinh phục cho bằng được hòn đảo này. Kết quả không một ai có thể sống sót quay trở về, ngoại trừ một nhân vật gây bất ngờ sau đây.
Năm 1914, nhà thám hiểm người Canada – Vilhjalmur Stefansson, đã thực hiện chuyến thám hiểm lên hòn đảo Wrangel. Tuy nhiên, chuyến đi ấy đã thất bại và mắc kẹt trên đảo suốt 9 tháng trước khi được một tàu cá giải cứu.
Đến năm 1920, với những trải nghiệm rút ra từ lần thất bại trước, Stefansson quyết tâm chinh phục hòn đảo một lần nữa. Ông vận động chính phủ tài trợ cho dự án này với lý do tuyên bố chủ quyền cho Canada, tuy nhiên lời đề nghị đã bị từ chối vì sứ mệnh này quá nguy hiểm.
Không từ bỏ, năm 1921 Stefansson tự mình thành lập một nhóm thám hiểm và tự bỏ ra mọi chi phí, tuy nhiên lần này ông không tham gia đi cùng.
Đoàn thám hiểm gồm Allan Crawford (20 tuổi), Fred Maurer (28 tuổi), Lorne Knight (28 tuổi) và Milton Galle (19 tuổi) đều là người Mỹ. Tất cả đều có kiến thức vượt trội trong các lĩnh vực địa lý và khoa học, cũng như kinh nghiệm thám hiểm, trong số đó có hai người đã từng tới Bắc Cực.
Stefansson dự định tuyển thêm những người Eskimo có khả năng thích nghi tốt với hoàn cảnh khắc nghiệt và thành thạo kỹ năng săn bắn, dựng trại và hỗ trợ đoàn. Dự kiến đoàn thám hiểm sẽ ở lại đảo 2 năm – khoảng thời gian cần thiết để luật pháp quốc tế thời ấy công nhận chủ quyền cho một đất nước có công dân sinh sống.
Nhưng sát đến ngày khởi hành, chỉ có duy nhất một người nhận lời đi theo đoàn, là một người phụ nữ nhỏ bé 23 tuổi, thuộc tộc người Inuit, nhút nhát và không biết chút gì về khái niệm “thám hiểm” hay “sinh tồn nơi hoang dã”.
Tên cô là Blackjack-née Ada Deletuk, sinh năm 1898 tại làng Spruce Creek ở Alaska, một vùng đất xa xôi nằm ở phía bắc của Bắc Cực.
Ada kết hôn năm 16 tuổi và có ba người con, hai trong số đó đã chết yểu trước khi người chồng cũng bỏ cô ra đi, để lại cậu con trai út mắc bệnh lao.
Để có tiền chữa bệnh cho con, Ada đã chấp nhận theo đoàn thám hiểm với vai trò là một thợ may và đầu bếp. Hành trang duy nhất cô đem theo ngoài ít quần áo cá nhân và kim chỉ, là một cuốn Kinh Thánh.
Lẽ ra, Ada không đủ tiêu chuẩn để được tham gia. Tuy nhiên vì không tìm được người nào khác nên họ miễn cưỡng để cô theo cùng. 4 người đàn ông trong đoàn không mấy hài lòng với sự có mặt của người phụ nữ. Họ chế nhạo Ada rằng, cô sẽ không bao giờ có thể chịu đựng được gian khổ trong thời gian ở lại đảo.
Sinh tồn giữa đảo hoang
Ngày 9/9/1921, đoàn thám hiểm lên đường, mang theo các trang thiết bị và thực phẩm dự trữ đủ dùng trong 6 tháng. Theo tính toán, nguồn thực phẩm này cùng với nguồn thịt tự săn bắn trong quá trình sinh sống, đủ để giúp họ duy trì được 1 năm trên đảo, sau đó sẽ có tàu tới tiếp ứng thực phẩm.
Tuy nhiên ngày 16/9/1921, con tàu gặp nạn khiến nó bị chìm tức khắc. Nguồn thực phẩm dự trữ cũng trôi theo dòng nước. Đoàn thám hiểm buộc phải đổ bộ lên đảo, dựng lều, thiết lập trạm khí tượng và bắt đầu tìm kiếm thức ăn chờ tàu cứu viện đến.
Trong khi những người đàn ông săn ngỗng, cáo… để làm nguồn thức ăn dự trữ, thì Ada Blackjack khâu vá, nấu ăn và hát Thánh ca. Vài tháng đầu còn khá ổn, nhưng sau đó nguồn thực phẩm dần cạn kiệt, họ chỉ có thể bẫy được vài con cáo, gấu và mòng. Niềm hy vọng của họ là mong cho mùa hè mau đến để tàu tiếp viện tiếp tế cho họ.
Tuy nhiên đến ngày 2/6/1922, một cơn bão lớn đổ ập lên đảo, khiến một vùng biển rộng lớn quanh Wrangel bị đóng băng. Vậy là hy vọng tàu tiếp tế đến trở nên vô vọng.
Đầu năm 1923, tình hình trở nên tồi tệ hơn, cả đoàn thường xuyên chịu những cơn đói triền miên, và một thành viên trong đoàn là Knight bị mắc bệnh Scorbut (bệnh do thiếu vitamin C dẫn đến lở loét da).
Crawford, Maurer và Galle quyết định băng qua băng tuyết để tới Siberia tìm kiếm sự trợ giúp. Họ để Ada lại chăm sóc Knight và hứa sẽ quay trở lại. Tuy nhiên, ngay hôm sau, một cơn bão lớn càn quét qua đảo, từ đấy 3 người đàn ông không bao giờ quay về được nữa.
Lúc này chỉ còn mình Ada chống chọi với thời tiết khắc nghiệt, cơn đói và cả nguy cơ bị thú dữ tấn công, hơn nữa cô còn phải chăm sóc thêm một người bệnh.
Knight mặc dù được Ada chăm sóc tận tình, nhưng cuối cùng anh vẫn không thể qua khỏi, bỏ lại một mình Ada hoàn toàn cô độc giữa hoang đảo.
Để sống sót, Ada lấy cát để giữ ấm chân, học cách đặt bẫy để thu hút cáo trắng, tận dụng khẩu súng của Knight học cách bắn chim, bắt hải cẩu làm thịt dữ trữ.
Cô tự dựng một chiếc bệ bằng gỗ làm nơi trú ẩn, để có thể phát hiện những con gấu Bắc cực từ đằng xa, tạo ra một chiếc thuyền làm từ những mảnh gỗ trôi dạt vào bờ. Thậm chí, cô mày mò cách sử dụng máy ảnh mà đoàn thám hiểm để lại và chụp khá nhiều ảnh, trong đó có những bức cô chụp chính mình.
Trong một bức ảnh tự chụp, người ta có thể cảm nhận thần thái lạc quan của Ada, bất chấp hoàn cảnh nghiệt ngã và sự cô đơn trên đảo hoang.
Đức tin tạo nên phép màu
Vào 20/8/1923, gần 2 năm sau ngày Ada tới đảo Wrangel, tàu cứu trợ của Stefansson cuối cùng cũng được điều đến. Chỉ có điều 5 người đi, chỉ còn lại 1 người sống sót, hơn nữa còn là 1 người phụ nữ duy nhất trong đoàn.
Năm 1924, tờ Los Angerles Times đã mô tả về cuộc sống của Ada rằng: “Ada làm chủ cuộc sống khá tốt trong môi trường khắc nghiệt không thể tưởng tượng nổi, như thể ngay cả khi không có tàu cứu hộ đến, thì cô ấy vẫn có thể sống thêm ở đó 1 năm nữa, mặc dù CÔ ĐỘC trên hoang đảo thật sự là MỘT TRẢI NGHIỆM KHỦNG KHIẾP”.
Sự trở về của Ada được xem là một thần tích. Truyền thông báo chí hết lời ca ngợi cô là “Người hùng”, “Người can đảm nhất”, “Nữ Robinson Crusoe”, nhưng người phụ nữ bé nhỏ ấy vẫn điềm tĩnh tránh xa mọi lời ca ngợi dành cho mình. Cô chỉ đơn giản cho biết: “Là một người mẹ, tôi cần phải sống để trở về với con trai mình” sau đó cô nhấn mạnh: “Tôi có Đức tin”.
Ada trở về đoàn tụ với con trai Bennett và chỉ nhận được khoản tiền lương cô được chi trả trong thời gian trên hoang đảo để chữa bệnh cho con. Trong khi nhà thám hiểm Stefansson và những người khác được hưởng lợi từ câu chuyện về cuộc thám hiểm thảm khốc ấy.
Người hùng Ada Blackjack không nhận được bất cứ khoản tiền nào từ việc khai thác câu chuyện của chính cô. Ada và con trai sống lặng lẽ trong cảnh bần hàn, dù vậy không ai nghe thấy cô ca thán hay mất đi sự lạc quan vào cuộc sống.
Năm 1972, người con trai Bennett qua đời vì đột quỵ ở tuổi 58. Gần một thập kỷ sau, ngày 29/5/1983, Ada Blackjack qua đời tại nhà dưỡng lão ở Palmer (Alaska), hưởng thọ 85 tuổi, được chôn cất ngay bên cạnh người con trai Bennett của mình.
Có thể nói, sự sống sót của Ada là một kỳ tích. Ada từng nói, trong hai năm sống trên hoang đảo, cô thường xuyên đọc Kinh Thánh, hát những bài Thánh ca và một mực giữ niềm tin tuyệt đối vào Đấng Tối Cao luôn ở bên và tiếp cho cô sức mạnh.
Trong những thời điểm ngặt nghèo và suy kiệt về thể xác, đức tin giúp cô giữ tinh thần điềm tĩnh và lạc quan đối mặt với thực tại, điều mà bốn người bạn đồng hành của cô – vốn được trang bị đầy đủ kiến thức khoa học và kinh nghiệm sinh tồn nơi hoang dã đã không thể làm được.
Theo NTDVN