Tinh Hoa

Chuyện khó tin ở làng săn cá ngừ

Gần 20 năm trước, làng Phú Câu là nơi phát tích nghề đánh bắt cá ngừ đại dương
đầu tiên tại duyên hải Nam Trung bộ – một nghề đang rất “hot” hiện nay. Những
ngày tháng 5 này, cảng cá làng Phú Câu (phường 6, TP. Tuy Hòa, Phú Yên) gần như
vắng bóng tàu thuyền (ghe), vì tất cả đang ở ngoài khơi trong chuyến đánh bắt cá
ngừ đại dương, mỗi chuyến kéo dài khoảng một tháng.

Cá ngừ đại dương được dân bản địa gọi là cá bò gù, cái tên rất tượng hình được
dùng mô tả hình dạng của loài cá này. Đơn giản vì cái lưng của cá ngừ “gù”, thịt
đỏ như thịt bò và mỗi con nặng khoảng 40kg.

Cá ngừ từng vứt lăn lóc trên đường…

Cá ngừ đang là sản vật quý giúp ngư dân các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ từ Quảng
Ngãi đến Bình Thuận có cuộc sống no đủ nhờ được xuất khẩu sang thị trường Nhật,
Mỹ. Nhưng khoảng 20 năm trước, loài cá này bị vứt lăn lóc khi ngư dân tóm được.
Khi câu được cá ngừ, chủ tàu thường cho “người đi bạn” – người đi câu thuê, mà
không dùng loại cá này vào bất cứ việc gì. “Người đi bạn” thường cho lại phụ nữ
trong làng và họ cắt cá bò gù ra từng khúc như tấm thớt rồi xát muối hột vứt
trên đường cái cho nắng gió hong khô. Cá ngừ đại dương ngày đó chỉ có một thị
trường duy nhất là các tỉnh Tây Nguyên thiếu cá biển, nên khô cá ngừ đại dương
bán với giá rất bèo.

Tại sao cá ngừ một thời bị đối xử không “xứng tầm” như một sản vật quý của đại
dương? Theo các lão ngư trong làng Phú Câu, hầu hết đều cho đó là phong tục của
dân biển là tục thờ cúng cá voi hoặc cá heo. Làng Phú Câu có hẳn một ngôi đình
để hương khói cho hài cốt hai loài cá này. Cá voi được ngư dân gọi là “ông Nam
Hải” và cá heo là “ông Nược”. Chính vì vậy nên các chủ tàu thường ít khi “ăn
thịt” loại cá có kích cỡ to và hiền lành giống cá voi và cá heo. Cá bò gù nhiều
đặc điểm giống hai loài cá thiêng này.

Cá ngừ về cảng cá phường 6, làng Phú Câu

Câu chuyện mà các lão ngư kể đã thuộc về quá khứ, lý do chính khiến cá ngừ không
có giá là vì ngư dân không biết cách “ăn thịt” chúng. Theo ngư dân làng Phú Câu,
món cá ngừ đại dương ăn sống với mù tạt và rau thơm hiện rất được ưa chuộng
trong các nhà hàng sang trọng, nhưng trước kia không hề có. Cá biển nhiều loại
nấu chín rất thơm ngon, trong khi thịt cá ngừ nấu chín thì “chỉ có cho heo ăn”.

Làng Phú Câu cũng như nhiều làng biển khác ở tỉnh Phú Yên có nhiều Việt kiều.
Theo dân làng, để ngư dân Tuy Hòa biết đến nghề câu cá ngừ đại dương phải kể đến
công “phát hiện” của những Việt kiều hồi hương.

Đầu thập niên 90, khi Nhà nước mở cửa, nhiều Việt kiều ở phường 6, TP.Tuy Hòa đã
về quê thăm người thân. Trong số đó có một Việt kiều đang làm nghề buôn bán cá ở
Nhật. Khi nhìn thấy cá bò gù vứt lăn lóc trên đường cái, ông này không khỏi giật
mình tiếc nuối, vì ở Nhật cá ngừ có giá… như sâm. Sau khi về Nhật, ông bắt đầu
đặt hàng người thân tại làng Phú Câu đánh bắt loại cá này. Hiệu quả cao, dần dà
việc đánh bắt cá ngừ mở rộng thành một làng nghề.

Đời chim trời cá biển

Khoảng 20 năm trước, bến cá làng Phú Câu chỉ có khoảng 20 chiếc tàu có công suất
lớn để đánh bắt xa bờ. Những chiếc tàu này ngư dân gọi là “ghe câu to” chuyên đi
câu cá nhám – tức cá mập – để lấy vây bán cho các thương lái “bào ngư vi cá”. Từ
khi nghề câu cá ngừ phát triển, đến nay có khoảng 400 tàu loại này tính ở cả hai
làng biển Phú Câu (phường 6) và Đông Tác (phường Phú Thạnh) nằm hai bên cửa biển
Đà Rằng.

Anh Lộc – Trưởng cảng cá phường 6 cho biết: “Lúc vật giá chưa leo thang, mỗi
chuyến ra khơi cần khoảng 100 triệu đồng/ tàu. Nay “tổn” – chi phí ra khơi –
phải hơn 100 triệu đồng gồm dầu và nước đá và các chi phí khác. Nếu mỗi tàu bắt
được khoảng 25 con, mỗi con trung bình 40kg là lỗ. Có tàu sau một tháng trên
biển thu về hàng tỷ đồng nhưng cũng có tàu chỉ về chừng mười con cá xem như lỗ.

Sơ chế cá ngừ ngay tại tại cảng cá.

Thường thì, các tàu trước khi xuất bến đều được các chủ “cây dầu” và nhà máy
nước đá bán nợ trước cho. Nếu về có lãi thì trả nợ liền, bằng không “ghi sổ” đợi
chuyến sau. Nhưng sống đời “chim trời cá biển” thì không có gì chắc chắn để nói
rằng chuyến ra khơi lần này là thắng lợi. Có rất nhiều chủ tàu đã phải bán ghe,
bán nhà để trả nợ do chuyến đi nào cũng lỗ vốn.

Ngư dân ở đây đều cho rằng ra khơi ngoài chuyện “hên xui” còn là kinh nghiệm “bí
truyền” để biết cách bắt được nhiều cá bò gù hay không. Khi mới phát triển nghề
này, ngư dân không biết dùng mồi gì để cá bò gù “khoái khẩu” nên hiệu quả “dính
câu” rất thấp. Sau này mọi người mới phát hiện, món khoái khẩu ấy hóa ra lại là
con cá chuồn – một loại cá rất nhiều trên biển. Nhưng cá ngừ cũng “đổi món” chứ
đâu chỉ quanh năm ăn cá chuồn? Thế rồi ngư dân làng Phú Câu tìm ra mực tươi và
nhiều loại mồi khác. Bây giờ, thời tiết nào, mùa nào trong năm thì dùng mồi câu
gì để “dụ” cá ngừ vẫn là một “bí mật” của riêng từng tàu trên cảng cá Phú Câu.

Chuyện đủ vốn, có lời hay lỗ là “chuyện thường ngày ở huyện” đối với ngư dân,
những người “sống trên bờ chờ dưới nước”. Nhưng chuyện sóng to gió lớn, gặp nạn
tàu chìm, người chết mất tích cũng chẳng phải hiếm ở làng cá nơi đây. Dân đi
biển có truyền thống là mỗi gia đình đều có ký hiệu riêng trên người để khi chết
đi lâu ngày vẫn có thể nhận biết. Nhiều trường hợp gia đình vẫn có thể nhận ra
người thân là nhờ vết xăm giống nhau. Ngư dân còn có truyền thống “sống chết có
nhau” khi gặp nạn trên biển. Nếu biết chắc là “trời không tha” thì họ sẵn sàng
dùng dây cột nhau thành một chùm, để khi tìm thấy xác thì tìm thấy cả hội.

Câu cá ngừ đại dương hiểm nguy là thế nhưng thành quả ngư dân nhận được không
phải lúc nào cũng tương xứng. Ngoại trừ một vài hộ ngư dân được “trời đãi”, đa
phần cũng chỉ đắp đổi qua ngày. Một chiếc tàu khoảng từ 7 – 10 người lênh đênh
trên biển một tháng ròng, nếu bắt được khoảng 50 con cá bò gù loại 40kg trở lên,
giá cá hiện này từ 130 – 170.000 đồng/kg, sau khi trừ phí tổn, thì chia ra mỗi
người có khoảng 10 triệu đồng. Nghề này chỉ có cánh đàn ông làm nuôi phụ nữ và
trẻ con ở nhà. 10 triệu đồng ấy chỉ có thể chi tiêu trong tháng và dành cho
những tháng dài biển động. Xem ra, nghề câu cá ngừ đại dương đang rất “hot” hiện
nay cũng không dễ dàng gì, nếu không muốn nói là nghề rất bạc, bạc như biển.

(Theo TT&VH)