Tinh Hoa

Bí ẩn xác ướp cổ tại Sài Gòn

Mười bảy năm trước, khi giải tỏa để bàn giao mặt bằng xây dựng công trình ở khu vực xóm Cải, phường 8, quận 5, TP HCM các công nhân thi công phát hiện ra một cụm mộ cổ nằm trong khu vực này. Thông tin trên nhanh chóng thu hút sự quan tâm của giới khảo cổ, nghiên cứu lịch sử lẫn truyền thông… Xác ướp gần như còn nguyên vẹn của một người phụ nữ trở thành đề tài bàn tán sôi nổi một thời. Hơn một thập niên trôi qua, mọi thứ bắt đầu trôi vào quên lãng…

Ngôi mộ hoàng tộc

Tháng Giêng năm 1994, trong đợt chỉnh trang các khu nghĩa địa và khu gò mả nhỏ lẻ cho phù hợp với kiến trúc đô thị chung, nhiều công nhân bắt đầu tiến hành khai quật 16 ngôi mộ nằm riêng lẻ trong khu xóm Cải, quận 5.

Những ngôi mộ khác được tiến hành bình thường, cho đến khi nhóm công nhân chạm phải ngôi mộ nằm trong khuôn viên cả trăm mét vuông với kết cấu chắc chắn như một ngôi đình.

Cứ liệu lịch sử của Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam Tp HCM ghi chép rất tỉ mỉ về kết cấu ngôi mộ này. Vòng thành mộ hình chữ nhật có kích thước dài 10m, ngang 6m, cao 1,2m, dày 0,8m. Cổng tam quan có hình mặt tròn, trang trí búp sen trên đầu cột. Cổng cao 1,4m, rộng 0,8m và cao 0,6m được xây dựng có mái vòm cong lót giả ngói ống trang trí hình rồng. Sân thờ là khoảng đất rộng có chiều dài 6m và ngang 4m…

Gò mộ là khối hợp chất lớn dài 3,6m, rộng 3m, cao 3,2m bao gồm 2 phần: phần trước có bia mộ nằm chìm trong khối hợp chất và phần sau có trang trí hoa văn, mỗi bên hông đều có vẽ hình mặt tròn lớn. Chữ trên bia mộ đã bị mòn, chỉ còn đọc được 3 chữ Kỷ Tỵ Niên.

Tiến hành khai quật bằng cách san phẳng gò mộ, giới khảo cổ phát hiện 2 huyệt mộ. Bao gồm một huyệt mộ nam và một huyệt mộ nữ.

Huyệt mộ nam dài 2,3m, rộng 0,8m, sâu 1,56m, từ miệng huyệt xuống đến đáy mộ được bao phủ nhiều lớp hợp chất. Đáng lưu ý, có một lớp cát mỏng phủ trên quách gỗ. Quách và quan tài còn nguyên lớp sơn màu đen, bên trong quan tài còn lại một ít xương cốt và những hiện vật, như: 7 chiếc nhẫn vàng có mặt đá, quạt giấy, lược, ống và cây ngoáy trầu bằng đồng, hộp bạc có dây xích hình cầu dẹt chạm dây lá, nút áo mạ vàng, bút lông…

Huyệt mộ nữ nhỏ hơn huyệt mộ nam một chút. Quách và quan tài còn nguyên vẹn, tiến hành mở quách rồi mở tấm ván thiên quan tài, giới khảo cổ thấy phía bên trong được sắp xếp rất ngăn nắp. Phía trên là 2 chiếc chiếu cói trải rộng che phủ diện tích mặt áo quan, 2 chiếc chiếu này còn giữ được màu sắc tươi mới. Phía dưới 2 chiếc chiếu cói, là một lớp giấy bản, từng tờ cuộn dày khoảng 10cm trải đều. Tiếp đến, là một tấm lá triệu (có thể là lá phướn – PV) bằng lụa, trên mặt lụa có nhiều chữ Hán nhưng do bị dung dịch làm nhòe mặt chữ, nên giới khảo cổ chỉ còn đọc được 4 chữ với nghĩa là “…Hoàng gia cung liệm”.

Kế đến, là một lớp vải bó tròn thắt 9 nút cũng trải đều trên diện tích mặt áo quan. Nhiều khả năng, 9 nút thắt này tượng trưng cho phái nữ theo tín ngưỡng “Nam thất nữ cửu” (Trai 7 gái 9).

Phần chính yếu là một bọc dài lớn cuốn bằng lụa và gấm, có 9 dây vải cũng thắt 9 nút. Tiến hành tháo mở lớp vải này, giới khảo cổ vô cùng kinh ngạc khi phát hiện xác của người phụ nữ hầu như còn vẹn nguyên, tóc vẫn còn đen mun. Duy có điều, nhãn cầu và sụn mũi đã bị phân hủy, da và các khớp, cơ… vẫn còn mềm có màu tái xanh. Phía dưới chân người phụ nữ này còn đi hài bằng vải bố thêu kim tuyến, bên cạnh là một đôi hài khác.


Xác ướp được trưng bày tại không gian mới của viện bảo tàng.

Xác ướp được quấn hàng chục lớp vải may theo kiểu vừa áo vừa quần bằng lụa và gấm, áo rộng cài khuy chéo. Khuy được làm bằng mã não và kim loại mạ vàng.

Trên cổ xác ướp này có một xâu chuỗi làm bằng hạt bồ đề, một túi nhỏ bằng gấm bên trong có phong bì đựng 3 tờ giấy viết chữ Hán, bao gồm 1 tờ ghi chép bài chú Vãng sanh Tịnh độ, một tờ ghi tên năm vị Phật và một tờ giấy khác với ngữ nghĩa chỉ việc quy y. Trên hai cổ tay của xác ướp có đeo 2 vòng kim loại bằng vàng.

Dưới lớp vải bọc xác là một lớp nhựa thông dày khoảng 10cm. Sau cùng, là một tấm gỗ đục 7 lỗ tròn theo hình Thất tinh cách ván địa vài xentimét. Với tấm gỗ này, vô hình trung đã tạo nên một cỗ áo quan có hai đáy.

Tất cả những vật dụng này đều thấm một lớp dung dịch màu đỏ, có mùi thơm, hơi nhầy.

Trong bức ảnh được chụp lại khi tiến hành mở vải bọc xác, còn thể hiện lớp dung dịch đỏ thẫm này rất dày và có cảm giác sền sệt như hồ dán.

Sau khi kiểm tra sơ bộ, xác ướp này được chuyển về Bệnh viện Đại học Y Dược để tiếp tục nghiên cứu và khảo nghiệm. Kế đến, giới khảo cổ chuyển giao lại xác ướp cho Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Và từ khi ấy cho đến nay, xác ướp trên được lưu giữ tại nơi này.

Những vật dụng tùy táng cộng với dòng chữ “Hoàng gia cung liệm”, bên cạnh vị trí của ngôi mộ lẫn kết cấu bên trên huyệt mộ, cho phép nhận định đây là ngôi mộ của hai người thuộc hoàng thân triều Nguyễn. Niên đại được xác định là vào thời Vua Tự Đức.

Mật mã xác ướp cổ

Căn cứ vào các di vật tìm kiếm được trong huyệt mộ nữ, giới khảo cổ tạm chấp nhận quan điểm về nhân thân của xác ướp này. Bà tên là Nguyễn Thị Hiệu, có khả năng mất vào năm 60 tuổi.

Việc bảo quản xác ướp bà Hiệu là nhằm kéo dài tuần lễ ma chay, điều chỉ được thực hiện ở các tầng lớp trên, dành cho hoàng thân quốc thích. Tiếp đến, phân tích vào tờ lòng phái quy y và những chữ Hán còn sót lại trong mảnh lụa phủ quan tài, có thể thỏa mãn với nhận định: “Bà Hiệu có pháp danh là Minh Trường. Vị sư truyền đạo cho bà là Thiền sư Chánh Niệm, tên húy là Tiên Liễu, thuộc đời thứ 37 dòng đạo Bổn Nguyên, tông Lâm Tế. Nhiều khả năng bà là dâu hoặc thân thích bên đằng ngoại của các chúa hay vua triều Nguyễn”.

Khi tiến hành khai quật ngôi mộ cổ trên, giới khảo cổ xác định được vật liệu để xây dựng mộ rất cầu kỳ. Đó là một hỗn hợp gồm vôi sống giã nhỏ từ san hô, vỏ sò trộn với cát, mật đường mía, than và thêm một số chất khác chưa phân tích được. Tất cả hỗn hợp này khi quyện vào nhau trở thành một kết cấu bền chắc đến mức “cứng hơn cả bê tông”.

Để bảo vệ xác ướp, có thể gia quyến của bà Hiệu đã dùng hợp chất này đổ thành một khối thống nhất và hết sức rắn chắc bao bọc toàn bộ nấm mộ sâu đến tận đáy huyệt. Khi khai quật, các nhà khảo cổ phải nhờ đến sức của 15 công nhân mày mò đục từng mảnh nhỏ của khối kết cấu này, đục ròng rã 40 ngày mới chạm được lớp cát dày khoảng 40cm phủ trên quách của quan tài.

Nhà khảo cổ học lừng danh Đỗ Đình Truật, người có mặt từ đầu cho đến cuối để giám sát và tìm hiểu việc khai quật mộ cổ đã mô tả chi tiết ngôi mộ và lai lịch xác ướp.

Theo tư liệu của nhà khảo cổ Đỗ Đình Truật thì bọc ngoài quan tài là cái quách bằng gỗ rất dày, cao 0,5m dài 2,2m. Toàn bộ quách và quan tài được phủ bằng lớp sơn ta cổ, rất tốt và kín mít từa tựa như lớp dầu hắc (hắc ín). Chính nhờ lớp sơn này, mà nước mưa thấm vào lòng đất không thể ngấm vào áo quan và dung dịch ướp xác cũng không tràn ra bên ngoài. Việc dung dịch không tràn ra bên ngoài, giúp cho thi hài của người chết được bảo quản tốt. Đó là lý do vì sao thi hài của bà Nguyễn Thị Hiệu hầu như còn vẹn nguyên, trong khi thi hài của ngôi mộ kế bên (khả năng rất cao là chồng của bà Hiệu) dung dịch bị tràn ra ngoài nên chỉ còn xương cốt.

Đôi hài còn lại đặt cạnh chân của bà Hiệu được làm bằng chất liệu rất tốt, có khả năng là một loại bố tơ tằm. Trên thân hài, được trang trí bằng những sợi vàng mỏng, đính vào nhau tạo thành hình bông cúc, được kết lại bằng những dây bện bằng vàng mỏng.

Việc miếng ván gỗ phía dưới quan tài trong huyệt mộ của bà Hiệu được đục 7 lỗ theo chòm sao đại Hùng tinh Bắc Đẩu rất giống với những ngôi mộ cổ của các bậc cung phi, hoàng thân vua chúa từng được khai quật ở khu vực phía Bắc. Quan niệm về chòm sao đại Hùng tinh Bắc Đẩu xuất phát từ đạo Lão, người xưa tin rằng chòm sao trên sẽ bảo vệ vong linh người đã chết thoát khỏi các tai ương của đời sống dưới cõi âm.

Về dung dịch bao bọc xác ướp bà Hiệu, cô hướng dẫn viên bảo tàng nói với tôi rằng được tạo thành bởi dung dịch vữa ô dước và nhựa thông. Vữa ô dước ở miền Bắc còn gọi là nhựa dây tơ hồng, một hợp chất tự nhiên có độ kết dính rất cao.

Nhà khảo cổ Đỗ Văn Ninh viết, những cách thức bảo quản này đã giữ được các ngôi mộ cổ hầu như còn nguyên vẹn cả quan tài và các di vật chôn theo. Thậm chí, cả miếng cau tươi, miếng trầu không, hộp thuốc, quạt giấy, tràng hạt… đều có màu sắc như mới, cảm giác rằng có thể nhón tay bắt lấy và sử dụng được.

Sau khi bị không khí xâm nhập, thi thể của bà Hiệu đã không còn mềm như lúc được bao bọc bởi dung dịch. Quan sát xác của bà trong lồng kính đặt ở Viện Bảo tàng, thấy thi hài bà đã trở nên khô cứng như mảnh cau khô. Duy trên đầu, vẫn còn chỏm tóc dài màu đen, phất phơ. Hốc mắt và mũi của bà gần như bị phân hủy hoàn toàn.

Vài năm trước, khi vào Viện Bảo tàng tham quan, tôi còn được thấy những vật dụng tùy táng của bà. Nhưng hiện tại, thi thể bà Hiệu đã được đặt trong một gian phòng khác, đẹp hơn, thông thoáng hơn… nhưng do kết cấu của căn phòng, nên các vật dụng này không còn khoảng không để trưng bày buộc phải lưu giữ trong nhà kho của Viện Bảo tàng. Các mảnh xương sọ của cụ ông cũng lưu trữ tại nhà kho này. Theo định kỳ, thi thể của bà Nguyễn Thị Hiệu sẽ được đưa ra khỏi lồng kín để bảo quản bằng hóa chất hiện đại. Khả năng là sau nhiều… trăm năm nữa, thi thể bà sẽ tự phân hủy (?!).

Có thể nói, xác ướp gần như còn vẹn nguyên của bà Hiệu là xác ướp rất độc đáo mà giới khảo cổ vô tình phát hiện được tại Sài Gòn. Còn để xác minh sâu hơn nhân thân của bà Hiệu, có lẽ vẫn còn phải chờ. Kể cả gốc tích nơi sinh sống, gia quyến, phẩm hàm, mối quan hệ với vương triều Gia Long…
 
theo  

http://www.khoahoc.com.vn