Sự thanh tao và cao thượng trong 10 tuyệt phẩm cổ nhạc Trung Hoa

14/01/15, 10:00 Cổ Học Tinh Hoa

Ngày nay cổ nhạc Trung Hoa đã dần biến mất. Một phần do cuộc sống hiện đại, quan trọng hơn là  thể loại này rất kén người nghe. Tuy nhiên, những tác phẩm này đều liên quan đến những điển tích tượng trưng cho nền văn hóa Trung Hoa.

Sau đây là mười bài hát được mệnh danh ‘Trung Hoa Cổ Điển Thập Đại Danh Khúc’

Cao Sơn Lưu Thủy

Cao Sơn Lưu Thủy gắn liền với điển tích về tình tri kỷ của Bá Nha và Tử Kỳ. Tương truyền hơn hai nghìn năm trước, Bá Nha hay đàn bản Cao Sơn Lưu Thủy nhưng chỉ có một mình Chung Tử Kì biết thưởng thức. Một lần Bá Nha gảy đàn, lòng nhớ tới núi cao, Tử Kì liền bảo “Thiện tại hồ cổ cầm, nguy nguy hồ nhược Thái Sơn” (Đánh đàn hay thay, vời vợi tựa Thái Sơn). Đến lúc Bá Nha nghĩ đến vực sâu, Tử Kì nhận ngay ra mà rằng “Đăng đăng hồ nhược lưu thủy” (Cuồn cuộn như nước chảy).

Khi Tử Kì lâm bệnh chết, Bá Nha chỉ gẩy đàn thêm một lần duy nhất trước mộ người tri âm rồi đập đàn vào tảng đá, không bao giờ cầm đến cây đàn nữa.

Cao Sơn Lưu Thủy và điển tích về tình tri kỷ của Bá Nha – Tử Kỳ

Quảng Lăng Tán

Khúc nhạc này phổ biến ở vùng Quảng Lăng, nay là thành phố Dương Châu, tỉnh Giang Tô, vào cuối thời Đông Hán (25-220 SCN). Đây là sự kết hợp của nhiều loại nhạc cụ, nhưng chỉ có đàn tranh là tồn tại đến ngày nay. Nhắc đến Quảng Lăng Tán thì phải nhắc đến hai câu chuyện, chuyện của thích khách Nhiếp Chính thời Chiến Quốc và chuyện của Kê Khang.

Cha của Nhiếp Chính đúc kiếm cho Hàn Vương, do trễ ngày giao kiếm đã bị thảm sát. Nhiếp Chính vì trả thù cho cha mà khổ luyện đàn mười năm trong núi sâu, sau nổi tiếng khắp nơi, được Hàn Vương triệu vào đàn. Nhiếp Chính nhân cơ hội này giết chết Hàn Vương rồi hủy dung mạp và tự tử để khỏi liên lụy thân nhân. Hậu nhân vì cảm khái câu chuyện này soạn nên khúc Quảng Lăng Tán.

Sáu trăm năm sau, đời Ngụy Tấn, Kê Khang, một nhạc gia nổi tiếng trong nhóm “Trúc Lâm thất hiền”, đã phát triển khúc này thành một khúc nhạt tuyệt luân. Đương thời họ Tư Mã đang chiếm quyền Tào Ngụy, Kê Khang tài giỏi nhưng tính cương trực, quyết đứng về phía nhà Ngụy, một mực tỏ thái độ không hợp tác với họ Tư Mã. Năm 262 SCN, Kê Khang, vì bị khép tội làm loạn triều đình, đã bị bắt thọ hình. Trước khi chết, ông tấu khúc Quảng Lăng Tán một lần cuối cùng rồi thốt lên rằng: “Quảng Lăng Tán từ nay thất truyền!”.

Tương truyền, trong một đêm nằm mộng, Kê Khang thấy có người khách lạ đến truyền lại một khúc nhạc tuyệt hay, sau này mới biết đó là Quảng Lăng Tán.

Bình Sa Lạc Nhạn

Tác phẩm được biết đến sớm nhất vào năm 1634, cuối triều Minh. Giai điệu du dương, dìu dập, trong tiếng đàn có tiếng nhạn. Cầm khúc miêu tả chim nhạn đáp xuống giữa không trung, ngoái đầu ngắm cảnh.

Cầm khúc miêu tả chim nhạn đáp xuống giữa không trung, ngoái đầu ngắm cảnh.

Mai Hoa Tam Lộng

Hoa mai là biểu tượng quan trọng của văn hóa truyền thống Trung Hoa. Là một “người bạn của mùa đông”, hoa mai biểu thị sinh động nhất giá trị của sự nhẫn nhịn, trên suốt quãng đường đời, khó khăn rồi cũng qua đi theo thời gian.

Hương thơm của hoa mai “sinh ra từ sự khắc nghiệt của cái lạnh”, như người Trung Quốc hay nói. Bằng cách này, hoa mai gợi lên một cái nhìn sâu sắc về nhân sinh: tâm hồn được tôi luyện trong chiều sâu kinh nghiệm, đồng thời đạt được sức mạnh nội tâm và lòng dũng cảm kiên cường.

Nhạc khúc thuộc loại “tá vật vịnh hoài”, mượn hình ảnh hoa mai để tán tụng những người có tiết tháo cao thượng. Nửa đầu khúc nhạc giai điệu du dương, thanh u gợi lên sự cao quý và trạng thái tĩnh tại, an tường của hoa mai. Nửa đoạn sau vội vàng, gấp gáp biểu hiện sự kiên cường chống chọi với cái lạnh của hoa mai. Giai điệu tiết tấu hai đoạn đầu và cuối như là bất đồng, tương phản rõ rệt…

Mai Hoa Tam Lộng, với một phiên bản sáo Trung Quốc và một phiên bản đàn tranh, là nhạc khúc nổi tiếng nhất về hoa mai.

Mai Hoa Tam Lộng mượn hình ảnh hoa mai để tán tụng những người có tiết tháo cao thượng.

Thập Diện Mai Phục

Thập Diện Mai Phục được viết cho đàn tỳ bà và tác phẩm xuất hiện lần đầu tiên trong Pipa Scores, biểu diễn bởi Hoa Thu Bình năm 1818.

Nhạc khúc miêu tả trận quyết chiến cuối cùng của chiến tranh Sở – Hán vào năm 202 TCN. Quân Hán sử dụng chiến thuật “thập diện mai phục” để đánh bại quân Sở. Hạng Vũ tự tử ở Ô Giang. Lưu Bang giành được thắng lợi. Cùng năm đó, nhà Hán thành lập.

Battle_of_Oroi-Jalatu
Chiến thuật ‘Thập diện mai phục’ và thắng lợi của Lưu Bang.

Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ

“Xuân giang triều thuỷ liên hải bình,

Hải thượng minh nguyệt cộng triều sinh.

Diễm diễm tuỳ ba thiên vạn lý,

Hà xứ xuân giang vô nguyệt minh”

Dịch nghĩa:

Thuỷ triều lên, mặt sông xuân ngang mặt bể,

Trên bể, trăng sáng cùng lên với thuỷ triều.

Lấp loáng theo sóng trôi muôn ngàn dặm,

Có nơi nào trên sông xuân là không sáng trăng?

Đây là những câu mở đầu bài thơ ‘Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ’ của thi gia nổi tiếng thời nhà Tầng là Trương Nhược Hư (khoảng 660-720 SCN). Nhạc khúc Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ được đặt theo tên của bài thơ, với hai phần diễn tả phong cảnh và cảm xúc tương tự nhau.

Ánh trăng trải vàng khắp mặt sông xuân.

Ngư Tiều Vấn Đáp

Khúc đàn tranh này bày tỏ niềm an vui tự tại của “ngư – tiều” giữa chốn rừng xanh núi biếc (thanh sơn lưu thủy). Nhạc khúc dùng phương pháp đối thoại giữa “ngư giả” và “tiều giả”, khi giai điệu lên cao là biểu đạt câu hỏi, lúc xuống thấp thì biểu thị câu trả lời. Ngư Tiều Vấn Đáp với giai điệu phiêu dật tiêu sái, biểu hiện thần thái thong dong tự tại của “ngư tiều”…

Tuy nhiên, những người nghe quả quyết rằng các câu hỏi không có câu trả lời. Khúc nhạc này cũng nhắc nhở rằng, tất cả thăng trầm trong cuộc sống đều có thể xem nhẹ và mọi thứ có thể được nhắc đến với một nụ cười, phản ánh tinh thần của Đạo gia.

Ngư Tiều Vấn Đáp với giai điệu phiêu dật tiêu sái, biểu hiện thần thái thong dong tự tại của “ngư tiều”, phản ánh tinh thần Đạo gia.

Hồ Gia Thập Bát Phách

Hồ Gia Thập Bát Phách được sáng tác thời nhà Đường, dựa trên một bài thơ cùng tên vào thời Hán. Cầm khúc phản ánh nỗi niềm của Thái Văn Cơ, tâm tình đau khổ, day dứt bởi nỗi nhớ quê da diết nhưng lại không nỡ chia lìa cốt nhục tình thâm. Điệu nhạc uyển chuyển, bi thương, như đứt từng đoạn ruột.

Thái Văn Cơ là một nữ sĩ tài hoa trong lĩnh vực thơ ca và âm nhạc thời nhà Hán. Bà là con gái của Thái Ung – một học giả nổi tiếng. Chồng của bà qua đời ngay sau lễ cưới năm 192 SCN. Khoảng năm 194, quân Hung Nô xâm chiếm lãnh thổ nhà Hán và Văn Cơ bị bắt làm tù binh.

Trong thời gian lưu lạc, bà trở thành vợ lẽ của Tả Hiền Vương Hung Nô và hạ sinh 2 người con. Mười hai năm sau, Tào Tháo mang vàng ngọc và lấy danh nghĩa cha Văn Cơ để chuộc bà về. Tuy nhiên, hai con của bà bị giữ lại Hung Nô.

Văn Cơ trở lại Hán địa. Bức tranh mô tả Văn Cơ và Tả Hiền Vương đang cưỡi ngựa, mỗi người ôm một người con.

Hán Cung Thu Nguyệt

Hán Cung Thu Nguyệt mô tả khung cảnh cấm cung trong triều đình Trung Hoa cổ đại, nơi các cung nữ than trách về số phận của họ. Nhạc khúc lấy bối cảnh một đêm mùa thu lạnh dưới ánh trăng, âm nhạc thắm đượm nỗi buồn và cô độc.

Hán Cung Thu Nguyệt lấy bối cảnh một đêm mùa thu lạnh dưới ánh trăng, âm nhạc thắm đượm nỗi buồn và cô độc.

Dương Xuân Bạch Tuyết

Ra đời tại nước Sở trong thời Chiến Quốc, tác phẩm được coi là thách thức tính điêu luyện của các nhạc gia. Tiêu đề của bài hát sau này đã trở thành một thành ngữ Trung Hoa khi đề cập đến sự tinh tế trong thi ca.

Dương Xuân Bạch Tuyết dùng tiếng đàn miêu tả cảnh mùa xuân, tuyết đang tan ra. Ở thời điểm giao mùa vẫn còn cái se lạnh của mùa đông hòa lẫn cái ấm áp của mùa xuân. Tiếng đàn trầm bổng khoan hòa, làm người nghe cảm thấy trong lòng nhẹ nhàng sảng khoái, mơ màng như thấy có tia nắng ấm áp lan tỏa trên thân mình, xa xa những lớp tuyết đang từ từ tan ra trên nhành mai…

Tiêu đề Dương Xuân Bạch Tuyết sau này đã trở thành một thành ngữ Trung Hoa khi đề cập đến sự tinh tế trong thi ca.

An Nhiên – Tổng hợp

Ad will display in 09 seconds

Dịch bệnh: Lời cảnh tỉnh từ những dự ngôn

Ad will display in 09 seconds

Chuyện cổ Đạo gia: Ông Thọ vì sao lại có cái đầu hình hồ lô?

Ad will display in 09 seconds

Obama đã lừa dối nước Mỹ như thế nào?

Ad will display in 09 seconds

Sét đánh có phải sự ngẫu nhiên?

Ad will display in 09 seconds

Người sống thọ có 4 cái lười

Ad will display in 09 seconds

Quan Công truyền kỳ: Chuyển sinh từ rồng lửa

Ad will display in 09 seconds

Kẻ xấu xí vì sao đắc quả La Hán?

Ad will display in 09 seconds

Dương gian có kẻ bẻ cong pháp luận, âm gian trả nợ không hết

Ad will display in 09 seconds

Vì sao nói: Phụ nữ càng dịu dàng như nước, đàn ông sẽ càng thành đạt?

Ad will display in 09 seconds

Sự biến mất 13 hộp sọ kì dị nhất thế giới

  • Dịch bệnh: Lời cảnh tỉnh từ những dự ngôn

    Dịch bệnh: Lời cảnh tỉnh từ những dự ngôn

  • Chuyện cổ Đạo gia: Ông Thọ vì sao lại có cái đầu hình hồ lô?

    Chuyện cổ Đạo gia: Ông Thọ vì sao lại có cái đầu hình hồ lô?

  • Obama đã lừa dối nước Mỹ như thế nào?

    Obama đã lừa dối nước Mỹ như thế nào?

  • Sét đánh có phải sự ngẫu nhiên?

    Sét đánh có phải sự ngẫu nhiên?

  • Người sống thọ có 4 cái lười

    Người sống thọ có 4 cái lười

  • Quan Công truyền kỳ: Chuyển sinh từ rồng lửa

    Quan Công truyền kỳ: Chuyển sinh từ rồng lửa

  • Kẻ xấu xí vì sao đắc quả La Hán?

    Kẻ xấu xí vì sao đắc quả La Hán?

  • Dương gian có kẻ bẻ cong pháp luận, âm gian trả nợ không hết

    Dương gian có kẻ bẻ cong pháp luận, âm gian trả nợ không hết

  • Vì sao nói: Phụ nữ càng dịu dàng như nước, đàn ông sẽ càng thành đạt?

    Vì sao nói: Phụ nữ càng dịu dàng như nước, đàn ông sẽ càng thành đạt?

  • Sự biến mất 13 hộp sọ kì dị nhất thế giới

    Sự biến mất 13 hộp sọ kì dị nhất thế giới

x